Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc hay nhất

Bức tranh tứ bình được coi là tuyệt bút trong bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu. Đoạn thơ là sự hòa quyện, đan cài giữa vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp trong tâm hồn con Bức tranh tứ bình được coi là tuyệt bút trong bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu. Đoạn thơ là sự hòa quyện, đan cài giữa vẻ đẹp thiên nhiên và vẻ đẹp trong tâm hồn con người Việt Bắc. Hãy cùng Luật Minh Khuê tìm hiểu trong bài viết dưới đây nhé! Việt Bắc.

Mở bài khổ 6 Việt Bắc (hay nhất) - Báo Sài Gòn Tiếp Thị

1. Phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ "Việt Bắc"

"Ngọn gió thơ băng qua rừng, băng qua biển để tìm ra giọng nói cho riêng mình". Nghệ thuật là lĩnh vực của cái độc đáo, nó không chấp nhận sự sao chép mô phỏng bởi "bình thường là cái chết của nghệ thuật". Mỗi người nghệ sĩ phải tạo ra cho mình một lối đi riêng không lặp lại người khác và không lặp lại chính mình. Có như vậy, tác phẩm mới đủ sức neo đậu trong trái tim người đọc, và người nghệ sĩ mới đủ sức chạm khắc tên mình vào dòng chảy bất tận của thời gian. Vì lẽ ấy, Tố Hữu luôn dành cho mình một vị trí rất riêng trên thi đàn với những khám phá độc đáo trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Bài thơ "Việt Bắc" chính là minh chứng tiêu biểu, đặc biệt là bức tranh tứ bình, đoạn thơ được coi là tuyệt bút của tác phẩm, tập trung khắc họa bức tranh tứ bình về cảnh và và người Việt Bắc. Một câu nói về thiên nhiên lại đến một câu nói về con người, cứ thế hòa quyện gắn bó khăng khít. Có thể thấy thi sĩ tạo hình theo lối xây dựng bộ tranh tứ bình - một hình thức rất phổ biến của nghệ thuật cổ điển

Mở đầu cho đoạn thơ là lời khẳng định về nỗi nhớ da diết và tình cảm thủy chung của người ra đi dành cho quê hương Việt Bắc:

Ta về mình có nhớ ta

Ta về ta nhớ những hoa cùng người

Sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà hòa quyện, đan cài như tiếng gọi 'ta - mình" của đôi lứa yêu nhau, làm cho giọng thơ trở nên tha thiết bồi hồi như tiếng hát giao duyên thuở nào. Đó là sắc điệu trữ tình và tính dân tộc trong thơ Tố Hữu.

Điệp ngữ "ta về" mở đầu cho hai câu thơ như đặt ra những nỗi niềm của người ra đi. Cái đẹp của câu thơ là hình ảnh "hoa cùng người", phải chăng con người là một bông hoa trong vườn hoa Việt Bắc, hay hoa tượng trưng cho vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc, còn người là toàn thể nhân dân nơi đây, tuy nghèo khó lam lũ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và người khi thì quấn quýt, khi thì tách rời để tôn vinh nét riêng biệt, độc đáo nơi đây. Đến đây, ta chợt nhớ về ba lần xuất hiện của "hoa" trong bài "Tây Tiến" của Quang Dũng. Sự gắn kết giữa "hoa" và "người" luôn đọng lại một cách đặc biệt trong lòng người nghệ sĩ.

Khung cảnh Việt Bắc mở ra trong nỗi nhớ của người ra đi là bức tranh thiên nhiên mùa đông với sự hòa phối màu sắc tuyệt vời:

"Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi

Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng"

Thiên nhiên Việt Bắc mở ra khiến cho người đọc ngẩn ngơ bởi vẻ đẹp rất trữ tình của núi rừng Tây Bắc. Mùa đông với màu xanh tha thiết, ngút ngàn của núi rừng trùng điệp hiện lên đầu tiên. Điểm xuyết trên cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. bông hoa như những bó đuốc thắp sáng tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc đối lập, vừa hài hòa, vừa cổ điển lại hiện đại. Cái màu "đỏ tươi", gam màu ấm nóng của hoa chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Trong các gam màu, màu xanh và đỏ luôn là những gam màu có sức ảnh hưởng lớn. luôn dẫn đầu để tạo ra sự nổi bật, tưởng như đối nghịch nhưng lại rất hài hòa. Chúng đi cùng nhau, nâng đỡ nhau, thắm thiết với nhau như những người chiến sĩ và nhân dân Việt Bắc luôn cần có nhau. Câu thơ làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ Nguyễn Trãi:

"Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ

Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"

Từ liên tưởng ấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ, không u uất buồn bã, bởi màu đỏ của hoa chuối cũng như đang phun trào như bó đuốc sáng trong đêm hay tia mặt trời buổi sớm. Sự rực rỡ ấy xua tan bao nhiêu giá lạnh, tạo nên bao nhiêu ấm nồng.

Cùng hiện lên với sự lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, phát rẫy sản xuất lương thực phục vụ kháng chiến. Trước thiên nhiên bao la, con người càng trở nên kì vĩ, hùng tráng hơn. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà chớp lấy một nét miêu tả sáng rực nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao rừng ngang lưng. Ở đây câu thơ vừa mang ngôn ngữ thơ vừa mang ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người ấy đã xuất hiện ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất "đèo cao". Con người khỏe khoắn, mạnh mẽ và chủ động như đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do làm chủ đất nước. Tinh thần ấy từng được bắt gặp trong thơ của Nguyễn Đình Thi:

"Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta"

Đấy là tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh và vững chãi giữa nắng vàng, giữa trời cao bao la và rừng núi mênh mông. Con người ấy đã trở thành tâm điểm, trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.

Hơn thế nữa, hình ảnh "dao gài thắt lưng" còn thể hiện nét đẹp trong lao động của con người Việt Bắc, có sự ấm áp của nắng, có sự hoạt động của con người, tất cả cùng cộng hưởng làm nên vẻ đẹp thi vị, thơ mộng.

Bức tranh mùa đông dần lùi về phía sau, nhường chỗ cho mùa xuân đến với sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình thức dậy sau mùa đông dài. Xuân tới, quy luật tất yếu của thiên nhiên, nhưng chính quy luật ấy đã mở ra cho con người được chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên độc đáo. Không gian mùa xuân Việt Bắc bừng sáng trong sắc hoa mơ:

Ngày xuân mơ nở trắng rừng

Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang

"Trắng rừng" được viết theo phép đảo ngữ và từ "trắng" được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, làm bừng sáng cả khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ. Động từ "nở" làm sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc cũng đón Bác Hồ về trong màu trắng hoa mơ:

"Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt

Trắng rừng biên giới nở hoa mơ

Bác về lặng im con chim hót

Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ"

Mùa xuân càng trở nên tươi tắn hơn bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động "chuốt từng sợi giang". Đây là công việc đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ đến từng chi tiết. Biết bao sản phẩm thủ công tinh xảo đã ra đời từ đôi bàn tay của người vùng cao nơi đây. Sự khéo léo ấy đã được nhà thơ Y Phương nhắc đến trong bài thơ "Nói với con":

"Người đồng mình thương lắm con ơi

Đan lờ cài nan hoa

Vách nhà ken câu hát."

Đằng sau mùa xuân tinh khiết, nhẹ nhàng, thơ mộng ấy, con nguoiwg hiện lên thật tự nhiên trong công việc hàng ngày. Từ "chuốt" và hình ảnh thơ đã nói lên được bàn tay vô cùng khéo léo, nhanh nhẹn, tỉ mẩn và chăm chút. Đó cũng chính là phẩm chất tần tảo, chịu thương chịu khó của con người Việt Bắc.

Trong bức tranh tứ bình về Việt Bắc, nhiều người cho rằng mùa hè đẹp nhất bởi nó có sự kết hợp cả hình ảnh và âm thanh, thỏa mãn thị giác và thính giác, đẹp bởi sự hòa quyện giữa vẻ đẹp cổ điển và hiện đại, tạo ra một chuỗi vận động liên hoàn:

Ve kêu rừng phách đổ vàng

Nhớ cô em gái hái măng một mình

Âm thanh của tiếng ve làm không gian ngày hè trở nên rộn rã, náo nức, vui tươi. Tiếng ve kêu gọi mùa hè rất tinh tế, không chỉ thể hiện được nhịp bước của thời gian từ xuân sang hè mà còn diễn tả được sự chuyển đổi màu sắc. Trong thơ ca, cũng không hiếm những nhà thơ nói lên sự vận động của thời gian qua sự thay đổi của màu sắc. Đó là Xuân Diệu trong bài "Đây mùa thu tới":

"Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh"

Hay đó là Nguyễn Bính trong bài "Tương tư"

"Ngày qua ngày lại qua ngày

Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng"

Nếu từ "rũa" thể hiện quá trình xâm lấn dần, sắc đỏ đang bào mòn màu xanh, từ "nhuộm" diễn tả quá trình ấy đã hoàn tất, thì từ "đổ" lại chứng tỏ một sự vận động nhanh chóng, đồng loạt từ xanh sang vàng. Cả cánh rừng Việt Bắc trở nên lung linh, lộng lẫy bởi cái màu vàng trải dài, kiêu sa đầy bắt mắt.

Hình ảnh cô gái "hái măng một mình" là linh hồn của bức tranh mùa hè. Cách gọi "cô em gái" nghe thật thân thương, gần gũi như anh em ruột thịt trong gia đình. Cô gái ấy đang "một mình" mirtj mài trong lao động "hái măng", âm thầm, lặng lẽ góp sức mình cho cuộc kháng chiến từ những điều bình dị, nhỏ bé. Đó là những con người bình dị mà cao cả "Không ai nhớ mặt đặt tên. Nhưng họ đã làm ra Đất Nước". (Nguyễn Khoa Điềm)

Khép lại bức tranh tứ bình là khung cảnh mùa thu tươi đẹp:

"Rừng thu trăng rọi hòa bình

Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung"

Không phải ngẫu nhiên mà bức tranh tứ bình trong thơ Tố Hữu lại phá lệ trật tự thông thường, không đi theo trình tự thời gian bốn mùa xuân, hạ, thu, đông mà lại mở ra với mùa đông và khép lại bằng mùa thu. Đây được xem như bản tổng kết bằng thơ trong chín năm kháng chiến, mùa đông là hiện thân cho quá khứ, thời gian mở đầu cuộc kháng chiến với bao gian khó, thử thách và mùa thu là thời điểm hiện tại, thời điểm chiến thắng của cuộc kháng chiến oanh liệt và vĩ đại.

Mùa thu được thể hiện với vầng trăng tròn vành vạnh, với ánh sáng dịu mát gợi lên vẻ thanh bình, yên ả. Đó là ánh trăng của hòa bình, của niềm vui, của niềm hạnh phúc lan tỏa. Ánh trăng cũng như hiểu lòng người, đang hòa mình vào niềm vui chiến thắng của con người.

Mùa thu ngọt ngào, trọn vẹn bởi "Tiếng hát ân tình thủy chung" trong cảm xúc "nhớ ai" của người ra đi. "Tiếng ai" là lời đồng vọng của con người Việt Bắc, những con người khổ cực lam lũ song không quên đi nghĩa tình gắn bó, sống anh dũng không sờn lòng nản chí. Tiếng hát cất lên vang vọng giữa núi rừng dưới ánh trăng thanh bình thơ mộng như tô đậm cảm xúc vui tươi, hồ hởi, niềm hạnh phúc hân hoan của con người trong ngày chiến thắng.

Đoạn thơ đã tái hiện một bức tranh tứ bình rất đặc trưng của Việt bắc. Mùa nào cũng đẹp cũng mang một diện mạo riêng, vừa đậm đà tính dân tộc song cũng rất mới mẻ, hiện đại. Bên cạnh đó là vẻ đẹp của những con người nơi đây, tuy nghèo khổ nhưng cần cù, chịu thương chịu khó, sống tình nghĩa, thủy chung, son sắt với Cách mạng.

2. Tính hiện đại trong bức tranh tứ bình

Sự sáng tạo của người nghệ sĩ là sức sống của thơ ca. Sáng tạo là kết quả của quá trình dẫn thân, nhập cuộc, tích lũy, hun đúc, một tiến trình cọ xát dữ dội. Sáng tạo nghệ thuật cần có yếu tố thẩm mỹ, tính chân thực cao, có khả năng tác động mạnh mẽ vào nhận thức của người đọc. Bản chất của lao động nghệ thuật là sáng tạo, một sự lao động miệt mài không ngừng nghỉ. Và chính sự sáng tạo ấy đã giúp tác phẩm trở nên độc đáo, ghi đậm dấu ấn trong lòng người đọc. Vì lẽ ấy, Tố Hữu với sự sáng tạo của mình đã giúp "Việt Bắc" có một chỗ đứng riêng trên thi đàn thơ ca kháng chiến, đặc biệt là tính hiện đại được thể hiện trong bức tranh tứ bình.

Tố Hữu đã rất sáng tạo khi vận dụng từ ngữ. Chỉ với một từ "đổ" trong câu thơ "Ve kêu rừng phách đổ vàng", nhà thơ không chỉ thể hiện được sự chuyển đổi của màu sắc mà còn thể hiện được nhịp bước đi của thời gian. Khác với từ "rũa" trong câu thơ 'Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh" của Xuân Diệu nói lên sự chuyển đổi chậm rãi. hay từ "nhuộm" diễn tả quá trình đã hoàn tất trong câu thơ "Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng" của Nguyễn Bính, "đổ" là sự chuyển biến đồng loạt và nhanh chóng, khiến cho bức tranh thiên nhiên Việt Bắc trở nên nguy nga, tráng lệ trong sắc vàng kiêu sa, bắt mắt.