Phân tích giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo tác phẩm Chí Phèo

Mỗi tác phẩm đều chứa đựng những giá trị mà tác giả muốn gửi gắm đến, Chí Phèo của Nam Cao cũng vậy, tác phẩm là nơi gửi gắm giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực sâu sắc.

1. Dàn ý phân tích giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo tác phẩm Chí Phèo chi tiết nhất:

1.1. Gía trị hiện thực:

1. Suy nghĩ về những vấn đề cơ bản của xã hội nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

a. Mối quan hệ giữa giai cấp thống trị với địa chủ hùng mạnh.

b. Mâu thuẫn giai cấp gay gắt, sự đối kháng giữa địa chủ thống trị với nông dân bị áp bức, bóc lột. Tiêu biểu là mâu thuẫn giữa Bá Kiến và Chí Phèo.

2. Hiện thực cuộc sống đau khổ, tăm tối của những người nông dân và công nhân lương thiện được tập trung thể hiện qua số phận của nhân vật Chí Phèo.

Chí là đại diện, điển hình cho bi kịch bị cả người và người chà đạp: từ một người lao động lương thiện, bị tha hóa trở thành một tên côn đồ và cuối cùng trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” chết thảm trước ngưỡng cửa trở về cuộc sống lương thiện.

→ “Chí Phèo” đã khái quát được hiện thực thường thấy trong xã hội cũ: có áp bức có đấu tranh, đấu tranh tự phát thường dẫn đến kết cục bi thảm. Và những cuộc đấu tranh như thế này không thể kết thúc vì "tre mọc măng". Bá Kiến chết, Lí Cường chết, còn nhiều kẻ xấu khác, còn những “hiện tượng Chí Phèo” và những cuộc đấu tranh tự phát.

1.2. Gía trị nhân đạo:

1. Đồng cảm sâu sắc với những số phận đau khổ, bất hạnh như Chí Phèo, Thị Nở:

2. Khẳng định, đề cao tính nhân văn, đề cao con người.

3. Nam Cao phê phán những thế lực tàn bạo chà đạp con người.

4. Nam Cao đề xuất một giải pháp nhân đạo, có ý nghĩa hiện thực và ý nghĩa triết lí sâu sắc: đánh đổ xã hội tàn bạo để bảo toàn tính người của con người.

→ “Chí Phèo” là một tác phẩm văn học chân chính như Nam Cao quan niệm: “Tác phẩm văn học có giá trị là tác phẩm phải nói lên nỗi đau của con người, ca ngợi lòng nhân ái, bác ái. Thật vậy, nó đã kéo anh lại gần cậu hơn.

→ “Chí Phèo” khẳng định tầm vóc của nhà văn Cầm Cao: khả năng khái quát hiện thực và tư tưởng nhân đạo.

2. Bài tích giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực trong tác phẩm Chí Phèo hay nhất:

Là nhà văn trung thành với chủ nghĩa hiện thực, cũng như các nhà văn chân dung đương thời, Nam Cao chủ yếu quan tâm đến việc thể hiện một cách sâu sắc cảnh ngộ của những người nghèo khổ bị áp bức, trong đó có Chí phèo. Tác phẩm để lại ấn tượng mạnh về bức tranh đời sống xã hội nông thôn. Đó là thứ bậc của làng Vũ Đại; là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt, nó đã phơi bày những mối quan hệ xã hội phức tạp của hiện thực, đồng thời khắc họa được những mối quan hệ hiện thực (Ăngghen). Đồng thời là tình thương của con người bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, đào thải. Đó chính là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.

Nam Cao được coi là nhà văn của nông dân trước hết vì ông có Chí Phèo. Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải dài cả chiều rộng không gian và chiều dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông dân Việt Nam đương thời.

Ngòi bút Nam Cao sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ giữa hiện thực và cái quyền uy. Không phải vì đất làng Vũ Đại có thực chiến như lời thầy địa lý nên quân mạnh chia làm năm bè bảy cánh ra đánh, mà vì đây là ngư trường để tranh miếng mồi ngon. bảy người bạn. Bề ngoài thì tử tế với nhau nhưng bên trong thì muốn nhau thất bại. Đây là hiện tượng thường xảy ra ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội - ruồi muỗi phải chết oan khi trâu, bò húc nhau.

Xây dựng bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật mâu thuẫn giai cấp giữa địa chủ cường hào và nông dân bị áp bức - phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó tạo ra giá trị cảm nhận to lớn và sức mạnh sống còn.

Nam Cao đã xây dựng hình ảnh điển hình của tầng lớp thống trị ở nông thôn: Bá Kiến - một tên cáo già đầy quyền lực, giọng điệu rất sang chảnh, nụ cười của Huấn Cao thể hiện bản chất gian ác, khôn ngoan. Đối với tật xấu của ông chú: hay ghen, Bá Kiến nghĩ đến nghề thống trị, vạch ra phương châm: mềm nắn rắn buông.

Nam Cao không đi vào vấn đề sưu thuế, địa tô, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam Cao đi vào khía cạnh: người nông dân bị xã hội hủy hoại về tinh thần, bị hủy hoại về nhân tính, bị tước đoạt quyền làm người . Nỗi khổ của Chí Phèo không phải là cuộc đời Chí Phèo chỉ là con số không: không nhà, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không đất cắm dùi… mà Chí Phèo bị xã hội hóa, bị xã hội xẻ thịt, bị cướp đi linh hồn, bị loại trừ khỏi xã hội loài người, sống kiếp quỷ dữ.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung gã say có một cái gì đó như sự giằng xé của một tâm hồn đau đớn, tuyệt vọng. Chí Phèo chửi thề chưa hẳn là vô tư. Dù say, nhưng vẫn mơ hồ thấm nỗi đau thân phận. Chí Phèo là một điển hình của nhóm lão nông bị đẩy vào con đường lưu hóa. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng thường xuyên bị áp bức, bóc lột dã man ở nông thôn Việt Nam. Đó là hiện tượng những người nông dân, những người bị áp bức phải đấu tranh để sinh tồn nhờ vào bọn côn đồ. Nam Cao khốn khổ bán rẻ nhân phẩm để tồn tại đã trở thành một thế lực mù quáng dễ bị bọn thống trị lợi dụng. Thế là Chí Phèo từ chỗ liều chết hai cha con chỉ bằng lời nói và vài đồng bạc trở thành tay sai mới của hắn. Sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là làm nổi bật một hiện tượng thường xảy ra ở nông thôn - hiện tượng phạm pháp. Nhưng ý nghĩa chung của hình tượng Chí Phèo ở một cấp độ cao hơn: sự hủy diệt, tính người trong một xã hội tàn ác không cho con người được làm người.

Tác phẩm Chí Phèo không dừng lại ở đó, nhưng với chuyện tình Chí - Thị, với giọng điệu nhẹ nhàng, đôi khi giễu cợt chuyện tình của một tầng lớp nửa hư, đây vẫn là một truyện có nội dung nghiêm túc, chứa đựng tinh thần nhân đạo tươi mới.

Trong khi cả làng Vũ Đại không chấp chí, coi Chí như một con quỷ, một mụ hủi, xấu như quỷ có tấm lòng vàng, thấy Chí hiền lành thì Thị Nở lại là kẻ cầu cạnh Chí ở dưới đáy của sự tha hóa để thức tỉnh bản chất của người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình yêu giản dị mà chân thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy tâm hồn Chí Phèo. Chí nghe những âm thanh thường ngày mà bấy lâu nay anh vùi trong men say nên không biết. Nó vang vọng sâu xa trong lòng Chí, trở thành tiếng gọi khẩn thiết của cuộc đời, nhắc nhở anh về ước mơ nhỏ bé năm xưa. Có lẽ đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí tỉnh táo tự nhận thức được thân phận của mình. Lúc đó tôi mới nhận ra sự uy nghiêm của mình, con quỷ của tôi bấy lâu nay. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành đến, anh vô cùng ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên anh được một người phụ nữ chăm sóc. Anh nhận ra mùi thơm của bát cháo hành - hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc bình dị mà thật. Anh ấy muốn thành thật và làm hòa với mọi người. Tình yêu của Thị Nở cũng sẽ mở đường cho hắn trở lại làm người. Hai con người làng Vũ Đại bị đày ải đã đến với nhau, tình yêu chân chính nhân hóa con người. Chẳng phải tình yêu có phần thô lỗ của người phụ nữ xấu xí đã đánh thức linh hồn con người trong con quỷ đó hay sao?

Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con người bị cự tuyệt quyền làm người. Khi biết xã hội không thừa nhận mình, bà Thị Nở - định kiến của xã hội đã không chấp nhận cháu mình đến với Chí. Chí đau đớn vùng vẫy. Càng uống, anh càng tỉnh và càng khóc nhiều hơn. Chí quằn quại, tuyệt vọng khi nhận ra tội ác của kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền làm người, đòi lại bộ mặt bị vùi dập.

Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao về giá trị tố cáo. Thông qua số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và hiện thực của những người nông dân bị ngược đãi, áp bức và âm thầm chịu đựng, tuyệt vọng, liều lĩnh chống trả lẫn nhau, phản ứng một cách cực đoan. Nam Cao cũng bày tỏ sự cảm thông, yêu thương những người nông dân bị đẩy vào con đường trụy lạc đã phát hiện ra bản chất tốt đẹp vốn có của mình. Nhưng cũng như các nhà văn hiện thực đương thời, ông không tìm được lối thoát cho các nhân vật của mình. Sau này, bằng con đường cách mạng, Tô Hoài và Kim Lân đã tìm được hướng đi cho nhân vật của mình.

3. Bài tích giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực trong tác phẩm Chí Phèo ấn tượng nhất:

Là nhà văn trung thành với chủ nghĩa hiện thực, cũng như các nhà văn chân dung đương thời, Nam Cao chủ yếu quan tâm thể hiện một cách sâu sắc cảnh ngộ của những người nghèo bị áp bức, trong đó có Chí phèo. Tác phẩm để lại ấn tượng mạnh về bức tranh đời sống xã hội nông thôn. Đó là thứ bậc của làng Vũ Đại; là ấn tượng về tình trạng khép kín của làng xã phong kiến. Đặc biệt, nó đã phơi bày những mối quan hệ xã hội phức tạp của hiện thực, đồng thời khắc họa chân thực những mối quan hệ hiện thực. Đồng thời, đó là tình thương cho những con người bị xã hội đẩy vào con đường tha hóa, đào thải. Đó là giá trị hiện thực và nhân đạo của Chí Phèo.

Nam Cao được coi là nhà văn của nông dân trước hết vì ông có Chí Phèo. Chí Phèo có phạm vi hiện thực được phản ánh trải dài cả chiều rộng không gian và chiều dài thời gian. Làng Vũ Đại trong tác phẩm là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông dân Việt Nam đương thời.

Ngòi bút Nam Cao sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ giữa hiện thực với kẻ quyền thế. Không phải vì đất làng Vũ Đại có thực chiến như thầy địa lý nói nên quân mạnh chia thành năm bè bảy cánh để chống lại, mà vì đây là ngư trường tranh mồi, mồi ngon. bảy mối bạn bè. Bề ngoài, họ tử tế với nhau, nhưng bên trong, họ muốn nhau thất bại. Đây là hiện tượng thường xuyên xảy ra ở nông thôn, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội - ruồi muỗi phải chết oan khi trâu, bò húc nhau.

Xây dựng bức tranh xã hội ở nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung làm nổi bật mâu thuẫn giai cấp giữa địa chủ cường hào và nông dân bị áp bức - phản ánh hiện thực nông thôn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó tạo ra giá trị cảm nhận tuyệt vời và sức mạnh quan trọng.

Nam Cao đã xây dựng hình ảnh điển hình của tầng lớp thống trị ở nông thôn: Bá Kiến - một tên cáo già đầy quyền lực, giọng điệu rất sang chảnh, nụ cười của Huấn Cao thể hiện bản chất gian ác, khôn ngoan. Đối với tính nết bẩn thỉu của ông chú: ghen tuông, Bá Kiến suy nghĩ về nghề thống trị, rút ra phương châm: mềm nắn rắn buông, bám thằng lông lá, đứa nào bám thằng hói trước sợ anh mình. anh hùng, thứ nhì sợ kẻ liều mạng. Với chủ trương: lấy ngưu nhân trị ngưu nhân.

Nam Cao không đi vào vấn đề sưu thuế, địa tô, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam Cao đi vào khía cạnh: người nông dân bị xã hội hủy hoại về tinh thần, bị hủy hoại về nhân tính, bị tước bỏ quyền làm việc. Nỗi khổ của Chí Phèo không phải là cuộc đời của Chí Phèo chỉ là con số không: không nhà, không cha mẹ, không họ hàng thân thích, không mảnh đất lập gia đình… mà Chí Phèo bị xã hội hóa.

Mở đầu tác phẩm là hình ảnh Chí Phèo vừa đi vừa chửi. Nhưng đằng sau chân dung gã say có một cái gì đó như sự giằng xé của một tâm hồn đau đớn, tuyệt vọng. Chí Phèo chửi thề chưa hẳn là vô tư. Dù đã say nhưng anh vẫn lờ mờ hiểu được nỗi khổ thân phận. Chí Phèo là một điển hình của nhóm lão nông bị đẩy vào con đường lưu hóa. Chí Phèo trước hết là một hiện tượng thường xuyên bị áp bức, bóc lột dã man ở nông thôn Việt Nam. Ngay lập tức. Đó là hiện tượng những người nông dân, những người bị áp bức phải đấu tranh để sinh tồn nhờ vào bọn côn đồ. Nam Cao khốn khổ bán rẻ nhân phẩm để tồn tại đã trở thành một thế lực mù quáng dễ bị bọn thống trị lợi dụng. Thế là Chí Phèo từ chỗ liều chết hai cha con chỉ bằng lời nói và vài đồng bạc trở thành tay sai mới của hắn. Sức mạnh tố cáo to lớn của hình tượng Chí Phèo trước hết là làm nổi bật một hiện tượng thường xảy ra ở nông thôn - hiện tượng phạm pháp. Nhưng ý nghĩa chung của hình tượng Chí Phèo ở một cấp độ cao hơn: sự hủy diệt, tính người trong một xã hội tàn ác không cho con người được làm người.

Tác phẩm Chí Phèo không dừng lại ở đó, nhưng với chuyện tình Chí - Thị, bằng giọng văn trong trẻo, lưu loát, đôi chỗ giễu cợt một chuyện tình giai cấp nửa hư cấu, đây vẫn là một truyện có nội dung. nội dung nghiêm túc, chứa đựng tư tưởng nhân văn mới.

Trong khi cả làng Vũ Đại không chấp nhận truyền thông, coi Chí như con quỷ, hủi, xấu như quỷ, có tấm lòng vàng, thấy Chí hiền lành thì Thị Nở chính là cầu nối đưa Chí về tham nhũng cực đoan để đánh thức bản chất của người lao động. Bằng sự chăm sóc giản dị, tình yêu giản dị mà chân thành của người đàn bà khốn khổ đã khơi dậy tâm hồn Chí Phèo. Chí nghe những âm thanh hàng ngày mà bao lâu nay anh vùi trong men say nên không biết. Nó vang vọng sâu xa trong lòng Chí, trở thành tiếng gọi khẩn thiết của cuộc đời, nhắc nhở anh về ước mơ nhỏ bé năm xưa. Có lẽ đây là lần đầu tiên sau bao nhiêu năm Chí tỉnh táo tự nhận thức được thân phận của mình. Lúc đó tôi mới nhận ra sự uy nghiêm của mình, con quỷ của tôi bấy lâu nay. Khi Thị Nở bưng bát cháo hành đến, anh vô cùng ngạc nhiên vì đây là lần đầu tiên anh được một người phụ nữ tặng quà. Anh nhận ra mùi thơm của bát cháo hành - hương vị của tình yêu thương chân thành, của hạnh phúc giản dị mà chân chất. Anh ấy muốn thành thật và làm hòa với mọi người. Tình yêu của Thị Nở cũng sẽ mở đường cho hắn trở lại làm người. Hai con người làng Vũ Đại bị đày ải đã đến với nhau, tình yêu chân chính nhân bản hóa con người. Chẳng phải tình yêu có phần thô lỗ của người phụ nữ xấu xí đã đánh thức linh hồn con người trong con quỷ đó hay sao?

Giá trị nhân đạo còn thể hiện ở bi kịch tinh thần của Chí Phèo: bi kịch của con người bị cự tuyệt quyền làm người. Khi biết xã hội không thừa nhận mình, bà Thị Nở - định kiến của xã hội đã không chấp nhận đứa cháu của mình đến với Chí. Chí đau đớn vùng vẫy. Càng uống, anh càng tỉnh và càng khóc nhiều hơn. Chí quằn quại, tuyệt vọng khi nhận ra tội ác của kẻ thù. Chí Phèo trợn mắt chỉ tay vào Bá Kiến đòi quyền làm người. Chí phải chết vì ý thức trả lại nhân phẩm, không chấp nhận kiếp con vật. Chí Phèo chết trước ngưỡng cửa trở về với cuộc đời, Chí chết quằn quại trên vũng máu, trong khát vọng được làm người lương thiện.

Chí Phèo của Nam Cao được đánh giá cao về giá trị tố cáo. Thông qua số phận của Chí Phèo, Nam Cao đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội Việt Nam lúc bấy giờ và hiện thực của những người nông dân bị ngược đãi, áp bức âm thầm chịu đựng, tuyệt vọng và ngoan cố chống trả. Nam Cao cũng bày tỏ sự cảm thông, yêu thương những người nông dân bị đẩy vào con đường trụy lạc đã phát hiện ra bản chất tốt đẹp vốn có của mình. Nhưng cũng như các nhà văn hiện thực đương thời, ông không tìm được lối thoát cho các nhân vật của mình. Sau này, bằng con đường cách mạng, Tô Hoài và Kim Lân đã tìm được hướng đi cho nhân vật của mình.