Chứng minh văn học dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết

Bài viết dưới đây chúng ta sẽ đi vào chứng minh văn học dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết giúp các bạn học sinh có thêm kiến thức để học thật tốt môn ngữ văn tại trường lớp của mình. Mời các bạn cùng tham khảo bài viết dưới đây.

1. Dàn bài Chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết thương người như thể thương thân hay nhất:
1. Mở bài

Giới thiệu vấn đề cần chứng: Chứng minh văn học dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết

Lưu ý: học sinh có thể lựa chọn theo hướng mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp tùy theo năng lực cá nhân.

2. Thân bài

a. Khái quát chung về văn học

Văn học thế giới nói chung và văn học Việt Nam nói riêng mang những màu sắc, nội dung, chủ đề vô cùng phong phú, đa dạng qua nhiều thời kì khác nhau.

Mỗi một tác phẩm văn học mang nội dung, ý nghĩa, nghệ thuật, bài học khác nhau tùy thuộc vào cách cảm nhận, phân tích của mỗi người.

Văn học nuôi dưỡng và phát triển tâm hồn của con người, giúp con người hoàn thiện nhân cách.

Văn học là linh hồn, là tiếng nói riêng của mỗi quốc gia, góp phần làm nên bản sắc văn hóa dân tộc.

Văn học gắn bó và phản ánh cuộc sống của con người qua nhiều thời kì khác nhau đồng thời nêu lên quan điểm, tâm tư, tình cảm của tác giả cũng như con người.

b. Văn học và tình thương

Văn học nêu lên tình cảm của con người, của tác giả cũng như những ước muốn của những nhân vật, những con người ở trong một hoàn cảnh nhất định.

Văn học dạy con người biết yêu thương, học hỏi, trau dồi thêm nhiều tình cảm tốt đẹp, minh họa qua một số câu ca dao tục ngữ sau:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

Hoặc câu:

“Thương người như thể thương thân”

Văn học còn đảm chất pánh hiện thực đời sống của con người từ đó bất lên khát vọng, ước muốn của con người thông qua một số nhân vật, tác phẩm: Chị Dậu trong Tức nước vỡ bờ (trích Tắt đèn) của Ngô Tất Tố, Lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn Nam Cao,…

3. Kết bài

Khái quát lên tầm quan trọng của văn học trong việc bồi dưỡng tình cảm, tình thương của con người và liên hệ thực tiễn.

2. Dàn bài Chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết thương người như thể thương thân ý nghĩa nhất:
1. Mở bài

Vẻ đẹp của văn chương là hướng người đọc đến với sự hiểu biết và tình yêu thương.

Những giá trị mà các tác phẩm ngữ văn giúp chúng ta hiểu được Văn học của dân tộc ta luôn tôn vinh những ai biết "thương người như thể thương thân” và phê phán những kẻ thờ ơ, dửng dưng trước hoạn nạn của đồng loại.

2. Thân bài

* Văn học dân tộc ta đã ca ngợi những ai có lòng nhân ái “thương người như thể thương thân”

- Tình cảm xóm giềng:

Ông giáo với lão Hạc (Nam Cao, Lão Hạc)

Bà lão láng giềng với vợ chồng chị Dậu (Ngô Tất Tố, Tắt đèn)

- Tình cảm gia đình:

Tình cảm vợ chồng: Chị Dậu ân cần chăm sóc chồng, quên mình bảo vệ chồng (Tắt đèn – đoạn trích Tức nước vỡ bờ)

Tình cảm cha mẹ và con cái

Cha mẹ thương con cái: Lão Hạc thương con (Lão Hạc).

Con cái thương cha mẹ: bé Hồng thông cảm, bênh vực, bảo vệ mẹ (Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu); con trai Lão Hạc: thương cha.

* Văn học phê phán những kẻ bất nhân, dửng dưng trước người gặp hoạn nạn

- Ngày xưa: Lí Thông lừa lọc, cướp công Thạch Sanh, dù được Thạch Sanh tha cho nhưng vẫn bị trời trừng phạt.

- Ngày nay:

Tội ác của thực dân Pháp với nhân dân ta (Nguyễn Ái Quốc, Thuế máu)

Tội ác của quan lại tay sai phong kiến: Quan phụ mẫu vô trách nhiệm, vô lương tâm (Phạm Duy Tốn, Sống chết mặc bay), cai lệ nhẫn tâm (Ngô Tất Tố, Tắt đèn – “Tức nước vỡ bờ”)

Những người chịu ảnh hưởng của hủ tục phong kiến: người cô của bé Hồng (Nguyên Hồng, Những ngày thơ ấu)

3. Kết bài:

Văn học đã khơi dậy tình cảm yêu ghét đúng đắn cho con người để con người sống tốt đẹp hơn.

3. Văn mẫu Chứng minh rằng văn học của dân tộc ta luôn ca ngợi những ai biết thương người như thể thương thân:
Văn học không chỉ là sản phẩm của thơ ca mà còn chứa đựng những nét đẹp văn hóa của các dân tộc. Đối với dân tộc Việt Nam là một dân tộc giàu lòng nhân ái và tình yêu thương này luôn được thể hiện một cách chân thành, cảm động trong các tác phẩm văn học.

Trong suốt hơn 4.000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, tình yêu vĩ đại luôn là tình cảm không thay đổi. Văn học Việt Nam là món ăn tinh thần và là sự kết tinh của con người Việt Nam. Văn học đồng hành cùng lịch sử đất nước và luôn thể hiện vẻ đẹp tinh thần của thời đại. Tình yêu là một trong những cảm xúc cơ bản và là nguồn cảm hứng cho nhiều thế hệ văn học.

Khi nói đến văn học Việt Nam, chúng ta không thể không nhắc đến văn học dân gian - một thành phần văn học tiêu biểu của văn hóa dân tộc. Tình yêu lần đầu tiên được phản ánh sâu sắc trong văn học dân gian. Những làn điệu dân ca, những câu tục ngữ, những bài hát đầy tình yêu thương đã được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác và đã trở thành những câu nói nổi tiếng sẽ luôn được ghi nhớ trong lòng người dân Việt Nam. Tình cảm gia đình trong sáng, tình mẹ, tình cha, nồng nàn và sâu sắc như:

“Công cha như núi Thái Sơn

Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra

Một lòng thờ me kính cha

Cho trò chữ hiểu mới là đạo con”

Hay tình thương cho những bác nông dân - con người âm thầm lặng lẽ, một nắng hai sương làm ra hạt gạo trắng ngần:

“Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

Và tình thương bao la, rộng lớn hơn giữa những người không chút máu mủ, ruột thịt nhưng cùng một quốc gia, dân tộc, cùng sống ở trên đời:

“Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”

“Thương người như thể thương thân”

Những bài hát ngọt ngào này đã trở thành một phần tuổi thơ của nhiều thế hệ, nuôi dưỡng tình cảm của con người từ thời thơ ấu và giúp họ trân trọng và yêu thương hơn khi lớn lên. Không chỉ vậy, những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết còn truyền tải rất nhiều tình yêu chân thành và cảm động.

Đó là tình yêu dành cho những nhân vật bất hạnh nhưng kiên cường và tốt bụng như Thạch Sanh, anh Khoai, chị Tâm. Đồng thời phê phán gay gắt những kẻ thờ ơ, thờ ơ với những người gặp khó khăn, thậm chí tàn nhẫn, làm tổn thương người khác như mẹ con Lý Thông, mẹ con Cám...

Những bài hát ngọt ngào này đã trở thành một phần tuổi thơ của nhiều thế hệ, nuôi dưỡng tình cảm của con người từ thời thơ ấu và giúp họ trân trọng và yêu thương hơn khi lớn lên. Văn học phát triển theo quá trình của mỗi người, dễ phản ánh sâu sắc những tình cảm sâu kín nhất của con người, tình yêu thể hiện trong họ ngày càng sâu sắc hơn. Trong các tác phẩm văn học hiện đại nhạy cảm như Nguyễn Hồng, Thanh Hoài, chúng ta trải nghiệm những tác phẩm văn học tràn đầy tình yêu trẻ thơ. Hồi ký “Tuổi thơ” của Nguyên Hồng kể về cậu bé tên Hồng thiếu thốn tình thương nhưng lại vô cùng hồn nhiên. Bất chấp những lời chỉ trích gay gắt từ dì, Hồng vẫn dành sự tôn trọng và yêu thương mẹ. Ngồi trong lòng mẹ, được mẹ ôm, an ủi, nhìn khuôn mặt yêu thương của mẹ, tôi cảm thấy hạnh phúc vô bờ bến… Ký ức của Hồng khiến mọi người lặng lẽ nhìn lại nguồn gốc cũng như tình mẫu tử thiêng liêng và quý giá của mình. Tập hồi ký đọng lại trong lòng người đọc tình yêu thương, sự đồng điệu nội tâm của tác giả dành cho các nhân vật cũng như tình yêu và sự chia sẻ của ông về cuộc đời cay đắng, bất hạnh.

‘Cuộc chia tay của những con búp bê” – Khánh Hoài cũng khiến cho bao người rơi lệ vì câu chuyện đầy cảm xúc của hai anh em Thành, Thủy vì do hành cảnh éo le mà bố mẹ ly hôn mà những đứa trẻ phải chia xa. Tình thương mà Khánh Hoài đã dành cho hai đứa trẻ và tình cảm anh em thơ ngây của Thành, Thủy đây chính là bức tranh chân thực giàu cảm xúc nhất về thứ tình cảm mang hai chữ gia đình

Trong kho tàng văn học ta lớn của dân tộc còn biết bao nhiêu tác phẩm chứa đựng nhiều tình thương khác. Tất cả đều nâng niu và trân trọng những số phận kém sự may mắn, tình cảm đáng quý trong cuộc đời và hết mức lên án những trái tim ích kỷ, thờ ơ với nỗi đau, sự bất hạnh của con người. Văn học chính là những tác phẩm về cuộc đời chân thực, cảm động về tình thương, về con người. Hãy trân trọng và tiếp thu nét đẹp đáng quý đó.