Phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng hay nhất

Nhà thơ Xuân Diệu - gương mặt tiêu biểu và có nhiều đóng góp nổi bật cho sự phát triển của phong trào thơ Mới. Một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này chính là “Vội vàng”. Qua bài thơ, chúng ta thấy được tâm hồn yêu thiên nhiên tha thiết, lòng ham sống mãnh liệt cùng quan điểm sống tích cực của tác giả. Sau đây là phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng hay nhất, mời các bạn tham khảo nhé.

1. Dàn bài phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất:
Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Xuân Diệu (đặc điểm sáng tác, các tác phẩm chính,...).

+ Ví dụ mẫu: Xuân Diệu là một trong những nhà thơ tiêu biểu trong phong trào thơ mới. Bài thơ “Vội vàng” thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên trong bức tranh mùa xuân rạng ngời, rung động lòng người. Với 13 câu đầu của bài thơ “Vội vàng” đã gợi cho người đọc một cảm xúc khó diễn tả.

- Giới thiệu khái quát về bài thơ Vội vàng.

- Nêu vấn đề cần bàn luận: Cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng.

B. Thân bài: Phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng

a. Cái tôi yêu đời tha thiết, rạo rực

- Bốn câu thơ mở đầu bài thơ đã vẽ nên trước mắt chúng ta một cái tôi với những ước muốn tưởng chừng như viển vông song xét đến cùng đó lại là biểu hiện của niềm khát khao được giữ mãi hương sắc của cuộc đời.

+ "Nắng", "gió" là những thứ thuộc về tự nhiên nào ai có thể chiếm giữ nó lại được.

+ Cái tôi Xuân Diệu lại muốn được "tắt nắng", "buộc gió" để giữ lại màu, lại sắc, lại hương cho cuộc đời.

→ Tất cả những điều đó chỉ có thể được lí giải bởi khát khao níu giữ hương sắc của cuộc đời.

- Chín câu thơ tiếp theo đã làm bật nổi lên cái tôi yêu đời, khao khát tận hưởng vẻ đẹp giữa trần thế ấy

+ Hình ảnh thơ độc đáo, mới lạ, hấp dẫn "ong bướm", "tuần tháng mật", "đồng nội xanh rì", "yến anh".

+ Phép điệp "này đây".

+ So sánh "Tháng giêng ngon như một cặp môi gần".

→ Vẻ đẹp tình tứ của bức tranh mùa xuân, tất cả như đang kết đôi, kết cặp đầy tình ái.

- Trước bức tranh thiên nhiên đẹp, tình tứ như thế, cái tôi trữ tình không thể giấu nổi niềm sung sướng, hạnh phúc, yêu đời thiết tha rạo rực cháy bỏng của mình mà phải thốt lên rằng:

Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

b. Cái tôi với quan niệm mới mẻ về thời gian và nỗi băn khoăn, lo lắng trước sự trôi chảy của thời gian, tuổi trẻ

- Cái tôi với quan niệm mới mẻ về thời gian, tuổi trẻ: Quan niệm thời gian tuyến tính

+ Sử dụng điệp từ các từ ngữ mang ý nghĩa giải thích "nghĩa là"

+ Các cặp từ đối lập ở hai vế câu "tới' - "qua", "non" - "già",... tác giả đã cho thấy quan niệm thời gian tuyến tính.

- Cái tôi băn khoăn, lo lắng trước sự chảy trôi của thời gian

+ Thời gian có sức mạnh thay đổi, tàn phá vạn vật thật ghê rợn, khiến cho cái tôi trữ tình có thể "ngửi", cảm nhận "vị chia phôi", cảm nhận "núi sông than thầm tiễn biệt".

+ Cái hờn dỗi của "cơn gió biếc', cái lo lắng, sợ hãi của cánh chim kia phải chăng chính là nỗi lo lắng, sợ hãi của chính cái tôi trữ tình trước sự chảy trôi một đi không trở lại của thời gian và tuổi trẻ.

c. Cái tôi khát khao sống vội vàng, hối hả để tận hưởng những vẻ đẹp nơi "thiên đường trên mặt đất"

- Điệp từ "ta muốn" được lặp lại nhiều lần.

- Động từ mạnh theo cấp độ tăng tiến "ôm" - "riết" - "say" - "thâu".

→ Khát khao, mong ước được tận hưởng tuổi trẻ, hạnh phúc và tình yêu của cái tôi trữ tình.

Kết bài: Khái quát về cái tôi trữ tình trong bài thơ và nêu cảm nghĩ của bản thân.

2. Phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu hay nhất, đặc sắc nhất:
Trong phong trào Thơ mới, Xuân Diệu không phải là nhà thơ tiên phong đầu tiên, tuy nhiên khi vừa mới xuất hiện trên diễn đàn thơ ca, với những sáng tác đỉnh cao mang phong cách riêng độc đáo, ông được mệnh danh là “nhà thơ mới nhất”. Tác phẩm “Vội vàng” được in trong tập “Thơ thơ” (1938) đã thể hiện thành công tiếng lòng yêu đời và khát khao sống mãnh liệt và quan điểm sống tích cực, hiện đại của nhà thơ Xuân Diệu, đồng thời là sự kết hợp giữa cảm xúc và triết lí, cùng những sáng tạo độc đáo về nghệ thuật.

Ngay từ đầu tác phẩm, tác giả đã thể hiện khát vọng níu giữ vẻ đẹp, hương sắc cuộc đời:

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.”

Trong bốn câu thơ ngũ ngôn đầu tiên, bằng biện pháp điệp ngữ “tôi muốn” kết hợp với điệp cấu trúc câu ở câu thơ thứ nhất và câu thơ thứ ba, tác giả đã nhấn mạnh chủ thể của hàng động và khát vọng mạnh mẽ, in đậm cái tôi cá nhân. Và chủ thể trữ tình cũng thể hiện rõ ước muốn hướng về đối tượng thông qua những hình ảnh độc đáo như “tắt nắng”, “buộc gió”, cho thấy ước muốn táo bạo của người thi sĩ để “màu đừng nhạt, hương đừng bay”. Điệp ngữ “cho, đừng” cùng điệp cấu trúc câu ở câu thơ thứ 2, 4 đã thể hiện mục đích đẹp đẽ của nhà thơ là trân trọng, níu giữ vẻ đẹp, hương sắc của cuộc đời. Như vậy, qua bốn câu thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được ước muốn lãng mạn của một thi sĩ với tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống sôi nổi, tha thiết.

Bất cứ ai cũng phải ngỡ ngàng sững lại trước vẻ đẹp thơ mộng mùa xuân. Những câu thơ kéo dài khiến cho người đọc liên tưởng đến như một bức tranh xuân tuyệt đẹp, thơ mộng. Sử dụng linh hoạt điệp từ “này đây” cùng nhịp thơ rộn ràng góp phần phô trương vẻ đẹp muôn màu sắc xuân. Hình ảnh biểu tượng cho mùa xuân là ong bướm, hoa, lá,… Tất cả những biểu tượng đó đã tạo nên một bức tranh mùa xuân sống động, căng tràn sức sống khiến cho người đọc như được chìm trong một thế giới ngập tràn màu sắc. Nhà thơ đã vẽ lên một khung cảnh hết sức lãng mạn gợi ra tâm trạng của những người đang yêu. “Yến anh” là chim yến chim oanh đại diện cho tình cảm thắm thiết của tình yêu đôi lứa. “Khúc si tình” là âm hưởng say đắm trong tình yêu.

“Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa

Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần!”

Mỗi buổi sáng mùa xuân luôn quyến rũ lạ thường, là lúc nữ thần mặt trời tỉnh giấc gửi những tia nắng lung linh trao niềm vui cho gia đình và tưới sự sống cho muôn loài. Đối với nhà thơ, mỗi ngày trôi qua đều vui vẻ sung sướng, nhưng cũng rất vội vàng bởi mỗi phút giây được sống đều rất quan trọng. Khi đang sung sướng thì ông lại nuối tiếc về tuổi xuân, đây là hai luồng cảm xúc đối lập với nhau.

“Tôi sung sướng, nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân”

Qua 13 câu thơ đầu, nhà thơ đã cho người đọc thấy một bức tranh mùa xuân thơ mông, tươi đẹp, xao xuyến động lòng người. Qua đó, Xuân Diệu cũng thể hiện niềm nuối tiếc về thời gian trôi qua không ngừng và không chờ đợi một ai.

Ở đoạn thơ tiếp theo, tác giả đã tái hiện bức tranh cuộc sống thực tại đẹp như thiên đường trên mặt đất:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si.
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi;
Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.”

Điệp khúc “Này đây” xuất hiện trở đi trở lại trong các dòng thơ ở những vị trí khác nhau,, mang đến âm hưởng vui tươi, rộn ràng, náo nức cho đoạn thơ. Điệp khúc này gắn liền với hệ thống ngôn từ, hình ảnh gợi hình, gợi cảm thông qua biện pháp liệt kê về rất nhiều hình ảnh đẹp về cảnh sắc thiên nhiên: “hoa của đồng nội”, “lá của cành tơ”, “yến anh… khúc tình si”, “ánh sáng… chớp hàng mi”, “buổi sớm… thần Vui hằng gõ cửa”. Như vậy, tác giả đã cảm nhận cuộc đời bằng con mắt của chính mình, đó là đôi mắt của sự trẻ trung, “xanh non”, “biếc rờn”.

Mọi cảnh sắc thiên nhiên qua thơ Xuân Diệu đều tràn trề nhựa sống Bằng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, tác giả đã thể hiện sự cảm nhận tinh tế về sự ngọt ngào của dòng thời gian: “tuần tháng mật”. Mỗi một ngày mới đối với Xuân Diệu là “thần Vui gõ cửa” - vị thần đem đến bình an, thể hiện niềm vui và trân trọng cuộc sống. Thông qua biện pháp nhân hóa, tác giả đã tái hiện bức tranh vạn vật với trạng thái căng tràn nhựa sống. Đặc biệt, qua sự cảm nhận độc đáo, tác giả đã sáng tạo hình ảnh: “Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”. Qua việc sử dụng biện pháp so sánh, mùa xuân đã hiện lên với vẻ đẹp tươi mới, gợi cảm và quyến rũ. Sức hấp dẫn của mùa xuân vốn vô hình, trừu tượng nhưng đã được tác giả Xuân Diệu hữu hình bằng cảm giác rất thật, rất cụ thể: “ngon” và hình ảnh so sánh “cặp môi gần”. Nghệ thuật chuyển đổi cảm giác đã thể hiện nhà thơ đã cảm nhận cuộc sống bằng tất cả các giác quan, cho thấy tình yêu và sự giao cảm mãnh liệt của nhà thơ đối với cuộc đời. Câu thơ còn thể hiện quan niệm thẩm mĩ mới mẻ của nhà thơ Xuân Diệu.
Bằng cảm nhận tinh tế, tác giả một lần nữa tạo nên hình ảnh độc đáo thông qua biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác. Nhà thơ cảm nhận thời gian bằng nhiều giác quan: khứu giác - “mùi tháng năm”, thị giác và vị giác - “rớm vị chia phôi”. Thi sĩ không chỉ cảm nhận được mùi thời gian mà còn thấy được vị chia phôi của thời gian. Câu thơ đã cho thấy cảm nhận tinh tế của tác giả qua sự giao thoa giữa các giác quan. Cùng với sự cảm nhận về thời gian là sự ý thức về không gian: “Khắp sông, núi vẫn than thầm tiễn biệt…”. Biện pháp tu từ nhân hóa và câu hỏi tu từ đã giúp nhà thơ khắc họa sự phai tàn, chia phôi của mỗi sự vật: “con gió xinh thì thào”, “hờn vì nỗi phải bay đi”, “chim đứt tiếng reo thi” vì “sợ độ phai tàn”. Không gian tràn ngập lời than của vạn vật vì chia phôi, phai tàn giữa các sự vật và trong từng tạo vật. Tác giác đã mở rộng mọi giác quan để cảm nhận những trạng thái tinh vi mơ hồ của cảnh vật. Đứng trước sự phôi pha, phai tàn của cảnh vật, giọng điệu thơ đã thể tâm trạng hẫng hụt, tiếc nuối, đầy tiếc nuối của thi sĩ: “Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa…”. Câu cảm thán kết hợp cách ngắt nhịp 3/1/4 độc đáo vừa thể hiện tâm trạng tiếc nuối, xót xa vừa thể hiện sự vội vàng, hối thúc. Điều này xuất phát từ sự tự ý thức sâu xa về giá trị của sự sống cá thể đang phai tàn trong dòng chảy thời gian. Và đây chính là cơ sở sâu xa của triết lí sống vội vàng:

“Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”

Với thi sĩ Xuân Diệu, sống vội vàng trước hết là sống với tốc độ phi thường, chạy đua với thời gian, đón trước thời gian: Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm. Câu trúc câu cầu khiến như lời giục giã, thôi thúc mọi người sống hối hả, cuống quýt. Sống vội vàng còn là sống sâu sắc, mãnh liệt. Điệp khúc “Ta muốn”: khao khát mạnh mẽ của nhà thơ cùng sự khơi gợi tình yêu cuộc sống của mọi người. Thi sĩ đã sử dụng hệ thống động từ ngày càng mạnh: "ôm", "riết", "say", "thâu", "cắn", thể hiện sự cảm nhận cuộc sống bằng cả tâm hồn, bản thể, nhấn mạnh triết lí sống sâu sắc, mãnh liệt, hết mình. Đi kèm với các động từ là những danh từ chỉ vẻ đẹp thanh tân, tính từ chỉ xuân sắc: “sự sống… mơn mởn”, “mây đưa”, “gió lượn”, “cánh bướm”, “tình yêu”, “non nước”, “cây”, “cỏ rạng”, “thanh tân”, “thời tươi”, “xuân hồng”: tái hiện một thế giới tươi đẹp, tình tứ. Đồng thời, các động từ chỉ trạng thái tăng tiến: “chếnh choáng”, “đã đầy”, “no nê” đã thể hiện cảm xúc say mê, nồng nàn, cuồng nhiệt. Nhịp thơ nhanh, hối hả, gấp gáp phản chiếu tình yêu đời sôi nổi trào dâng của nhà thơ. Đoạn thơ như tái hiện nhịp đập con tim, hơi thở của thi nhân đang gấp gấp, hối hả để yêu, để say, để thiết tha với cuộc đời. Có lẽ, với Xuân Diệu, sống vội vàng chính là cách biến cuộc đời vốn hữu hạn trở nên vô hạn, giống như nhà thơ từng tâm niệm:

“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn le lói suốt trăm năm”

3. Phân tích cái tôi trữ tình trong bài thơ Vội vàng ấn tượng, chiếm trọn trái tim giám khảo:
Phong trào thơ mới xuất hiện vào giai đoạn những năm 1932-1941, dù chỉ kéo dài chưa đến một thập kỷ thế nhưng nó đã trở thành khoảng thời gian vàng kim, nâng bước một loạt các nhà thơ trẻ tuổi tài năng, với những bài thơ đặc sắc cả về thể loại, lẫn đề tài. Một trong số đó nổi bật nhất phải kể đến Xuân Diệu, người được xem là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” bởi giọng thơ thiết tha, rạo rực. Ông có một niềm say mê đặc biệt với tình yêu, bao gồm cả tình yêu con người, tình yêu thiên nhiên và cuộc sống, đồng thời cũng có chấp niệm sâu sắc với mùa xuân và tuổi trẻ. Vội vàng là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Diệu, đây cũng là tác phẩm thể hiện được tình yêu cuộc sống, sự nhạy cảm trong tâm hồn và những quan điểm của Xuân Diệu về mùa xuân, tuổi trẻ và tình yêu.

Vội vàng (1938) được in trong tập Thơ thơ, tác phẩm như một khu vườn rực rỡ tràn đầy hương sắc, ngào ngạt hương thơm của hoa cỏ, tràn trề sự sống, là bản giao hưởng nhiều âm sắc, thể hiện đầy đủ mọi cung bậc cảm xúc từ vui tươi, e ấp, đến nồng nàn, đắm say trong tình yêu của Xuân Diệu. Có thể nói rằng Vội vàng chính là tình yêu tha thiết của tác giả dành cho cuộc đời, qua đó thể hiện những xúc cảm rất mới, rất lạ, xúc cảm đến từ “một nguồn sống rào rạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này”.

“Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi”

Trong khổ thơ đầu tiên tác giả đã bộc lộ khát khao mạnh mẽ, cháy bỏng qua các điệp từ “Tôi muốn…”, mang đến nhịp thơ dồn dập, vội vã. Nhà thơ muốn “tắt nắng”, “buộc gió” để níu giữ hương sắc cho cuộc đời, đó là khát khao mãnh liệt, đầy táo bạo. Xuân Diệu muốn nắm giữ lại tất cả những gì tươi đẹp nhất của tự nhiên, ấy là ánh nắng mùa xuân dịu dàng ấm áp, hương hoa nồng nàn, đắm say phả trong gió. Qua mong muốn đầy lạ lùng ấy ta thấy rõ được cái tôi trữ tình đặc biệt của người thi sĩ, trước hết là cái “tôi” đầy ngông cuồng, táo bạo, dám đứng lên thách thức cả tạo hóa, chống lại bước đi của vũ trụ để giữ lại những cái đẹp mà bản thân khao khát. Đó cũng chính cái “tôi” hồn nhiên, trong sáng, bướng bỉnh khi đứng trước những điều mà mình yêu thương, trân trọng.

Tổng hòa hai yếu tố ấy đã tạo nên một hồn thơ Xuân Diệu rất riêng, rất ấn tượng, khiến độc giả lại càng cảm nhận rõ hơn tấm lòng yêu cái đẹp, cái tuyệt vời trong vũ trụ của người thi sĩ nó mãnh liệt, sâu sắc đến nhường nào. Đồng thời cũng cho thấy quan điểm mới của Xuân Diệu về cuộc sống và cái đẹp, đối với thi nhân cái đẹp không hề ở chốn bồng lai tiên cảnh nào, mà ở ngay sát bên chúng ta, chính là những thứ tưởng chừng như thật đơn giản tầm thường, nào là ánh nắng, nào là hương hoa, đều là những thứ con người dễ dàng bỏ qua, không mấy bận tâm.

Xuân Diệu sau khi đã hiểu rõ quy luật của tạo hóa, đời người vốn ngắn ngủi, chết là về với cát bụi, thì được tận hưởng những vẻ đẹp giản dị mà tạo hóa ban tặng thực sự là một đặc ân đáng quý. Người thi nhân không muốn bỏ lỡ bất kỳ một giây phút nào, thậm chứ còn ích kỷ muốn níu giữ tất cả chúng lại để riêng mình được tận hưởng. Xuân Diệu ngông cuồng, táo bạo và phi lý cũng từ những cái triết lý nhân sinh rất có lý mà nên: Đời người hữu hạn và cái đẹp chỉ ở tại trần gian chứ không ở chốn nào khác, cớ sao không tận hưởng cho thỏa

Bức tranh mùa xuân tươi đẹp mở đầu với cảnh cặp “ong bướm” đang ngập tràn hạnh phúc, say sưa với mật ngọt của tình yêu tựa như đôi vợ chồng trẻ quấn quýt trong tuần trăng mật. Là cảnh sắc thắm của hoa xuân cùng với sắc xanh của nội cỏ, tổng hòa tạo nên một bức tranh rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa cân đối, đó còn là cảnh “lá của cành tơ phơ phất”, lá gắn với cành, hạnh phúc êm đềm bên nhau thật tình tứ và lãng mạn biết mấy. Và thêm nữa là “khúc tình si” của cặp yến anh đang thuở mặn nồng gắn bó, mang đến không khí thực rộn ràng vui tươi, đầy đủ cả sắc, hương, vị của một bức tranh xuân nồng. Tuy nhiên Xuân Diệu không chỉ dừng ở đó, ông còn thêm vào bức tranh của mình một chút ánh sáng dịu nhẹ, chan hòa và ấm áp, tựa như sương, như nắng phụ lên tất thảy mọi cảnh vật, khiến chúng thêm phần lãng mạn và tràn ngập sức sống hơn. Câu thơ “Và này đây ánh sáng chớp hàng mi”, người ta cứ thắc mắc rốt cuộc cái “hàng mi” ấy là của ai, của chính bản thân Xuân Diệu khi đứng trong khu vườn xuân tràn ngập hương sắc ánh sáng, hay là của một nàng thơ đang dạo bước. Nhưng dù nhân vật trữ tình ấy là ai người ta vẫn luôn cảm nhận được cái chất thi vị tình tứ của người nghệ sĩ, người muốn thêm vào bức tranh thiên nhiên sự xuất hiện của con người, sự sống và tình yêu của con người, để cho bức tranh thêm hài hòa và sống động, thể hiện rõ sự gắn bó chan hòa giữa nghệ sĩ và thiên nhiên rộng lớn. Khẳng định rõ ràng vẻ đẹp của thiên nhiên luôn song hành cùng với sự phát hiện và thưởng thức của con người.

Bên cạnh đó câu thơ “Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa” thể hiện một triết lý sống mới mẻ của tác giả rằng mỗi một ngày được sống, được mở mắt nhìn nắng mai là một niềm vui, một niềm hạnh phúc đến tột cùng, và Xuân Diệu thật sự rất trân trọng và biết ơn điều đó. Cuối cùng kết lại bức tranh thiên nhiên mùa xuân rực rỡ Xuân Diệu kết lại bằng một câu thơ đầy ấn tượng “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, mang đến sự chuyển đổi cảm giác đầy tinh tế, từ thị giác, thính giác, xúc giác, tác giả đã dẫn người đọc đến cảm nhận bằng vị giác. Không chỉ thể hiện xúc cảm muốn nuốt trọn mùa xuân vào lòng, mà còn là niềm khát khao đến tột cùng, Xuân Diệu thưởng thức mùa xuân tựa như một kẻ sành ăn thưởng thức mỹ vị của cuộc sống. Không chỉ vậy cái cách mà tác giả so sánh mùa xuân, so sánh tháng giêng giống như “cặp môi gần” cũng khiến người đọc không khỏi ngỡ ngàng trước sự lãng mạn, tình tứ của một người luôn đắm say và khao khát tình yêu. Đối với thi nhân mùa xuân trước mắt thực căng tràn nhựa sống, tựa như một người con gái đang sắc xuân thì, khiến người ta thực muốn nâng niu, trân trọng hết lòng.