Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Kiều ở lầu Ngưng Bích

Trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một bút pháp nghệ thuật tuyệt vời để tả cảnh ngụ tình, giúp người đọc hiểu rõ hơn về tâm trạng của nhân vật chính, mời bạn đọc tham khảo.

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là gì? Bút pháp tả cảnh ngụ tình

1. Dàn ý phân tích nghệ thuật tả cảnh ngụ tình đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích

1.1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Du, Truyện Kiều đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.

1.2. Thân bài

– Kiều bị lừa bán vào lầu xanh và muốn tự tử nhưng không thành công. Cô ấy nhớ gia đình da diết hơn bao giờ hết.

– Cánh cửa bể và thuyền thấp thoáng xa xa gợi lên không gian hoang vắng, rợn ngợp.

– Nàng Kiều không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu và cảm thấy rất buồn.

– Cảnh nội cỏ và mây xanh xanh làm tâm trạng Kiều ngao ngán.

– Cuối cùng, sóng biển gào thét xung quanh Kiều làm cô ấy cảm thấy buồn lo, hoảng loạn.

– Nguyễn Du đã miêu tả một cách hợp lý từ xa đến gần, từ nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn da diết của Kiều.

1.3. Kết bài

Khái quát lại nội dung, ý nghĩa của đoạn trích.

2. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Kiều ở lầu Ngưng Bích chọn lọc:

Nguyễn Du, một nhà văn vĩ đại của Việt Nam, đã để lại dấu ấn đặc biệt trong văn học Việt Nam nhờ khả năng miêu tả chân dung nhân vật và cả sự miêu tả thiên nhiên, ngụ ý tâm tình và tình cảm của con người. Nguyễn Du là một tài năng đặc biệt trong việc chuyển tải tâm trạng của nhân vật thông qua việc miêu tả không chỉ ngoại cảnh mà còn cảm nhận được tâm trạng của nhân vật. Tác phẩm “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một ví dụ điển hình cho tài năng này của ông.

Trong tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Du, nhân vật chính Thúy Kiều đã trải qua nhiều cảnh đau đớn và ê chề. Nhân phẩm của mình rất quan trọng, và vì vậy, Kiều đã tìm đến cái chết để giải thoát, nhưng không thành công. Thúy Kiều bị Tú Bà giam giữ trong lầu Ngưng Bích, chờ đến ngày thực hiện âm mưu mới. Trong suốt thời gian sống trong lầu Ngưng Bích, nàng sống trong cảnh đau đớn, tủi hổ, cô đơn và tuyệt vọng đến cực điểm.

Tuy nhiên, những cảnh tượng và tâm trạng này đã làm cho nhân vật của ông trở nên sống động và đầy cảm xúc hơn bao giờ hết. Những bức tranh miêu tả thiên nhiên dưới đôi bàn tay của Nguyễn Du luôn luôn thực hiện hai chức năng chính: thể hiện ngoại cảnh và thể hiện tâm trạng. Tám câu thơ cuối trong bài “Kiều ở lầu Ngưng Bích” đã cho thấy rõ tài năng đặc biệt của ông với việc miêu tả thiên nhiên và ngụ ý tâm trạng của nhân vật. Hai câu thơ cuối cùng có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang, rợn ngợp của Kiều đã được tác giả tập trung bút lực thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này.

Tất cả những yếu tố trên đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm của Nguyễn Du. Ông đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.

Trong cô đơn, mọi người đều nhớ về gia đình. Người con gái trong ca dao vẫn nhớ quê mẹ dù đã lấy chồng:

Chiều về đứng ngõ sau nhìn về quê mẹ, ruột đau chín chiều.

Nàng Kiều bán mình để cứu gia đình nhưng lại càng nhớ gia đình hơn.

Buồn ngắm biển chiều, thuyền xa cánh buồm.

Đoạn trích cho thấy sự khéo léo của Nguyễn Du trong việc dùng hình ảnh để miêu tả tâm trạng của nhân vật. Không gian mênh mông của cửa bể và hình ảnh thuyền thấp thoáng phía xa gợi lên cảm giác rợn ngợp, hoang vắng cho Kiều. Cánh buồm, một thứ vật nho nhỏ, bỗng trở nên nhỏ bé hơn trong không gian rộng lớn, khiến cho nàng càng thêm nhận ra sự tầm thường, lênh đênh, nhỏ nhoi của mình giữa cuộc đời bất định. Tuy nhiên, ông cũng rất khéo léo lựa chọn thời gian để nhớ về quê hương, gia đình của nàng, đó chính là “chiều hôm”.

Nỗi buồn của Kiều không chỉ đơn thuần là nhớ về quê hương, mà còn là nhớ về tình thân, cảm giác được trở lại bên gia đình, được sum họp sau một thời gian dài xa cách. Sau nỗi buồn tha hương, xa xứ, nàng lại nghĩ về thân phận của mình, và càng đau lòng hơn. Bài thơ “Buồn trông ngọn nước mới sa/ Hoa trôi man mác biết là về đâu?” đã diễn tả rất tinh tế thân phận của Kiều. Những giông bão, sóng gió trong cuộc đời đã vùi dập cuộc đời nàng, và thân phận bé bỏng, mong manh của nàng giống như những cánh hoa trôi man mác. Tất cả đều là biểu tượng cho sự chìm nổi, bèo bọt của nàng trong cuộc đời lênh đênh, không biết tương lai sẽ đi đâu về đâu. Câu hỏi tu từ “biết là về đâu” như một lời than, một lời ai oán cho số phận bất hạnh. Những suy nghĩ đó càng làm cho thân phận của Kiều trở nên phức tạp hơn, đầy thăng trầm và khó đoán trước.

Trong tác phẩm của Nguyễn Du, màu xanh xuất hiện nhiều lần với ý nghĩa khác nhau. Nếu trong đoạn trích “Cảnh ngày xuân”, màu xanh tượng trưng cho sự sống, tươi tốt và mơn mởn, thì trong đoạn trích này, màu xanh lại mang một ý nghĩa khác: “Buồn trông nội cỏ rầu rầu / Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.” Nội cỏ chỉ có một màu tàn lụi héo úa. Màu xanh cũng nối chân trời và mặt đất với nhau, nhưng lại nhạt nhòa và đơn sắc. Sự pha trộn của tất cả các màu sắc đó khiến tâm trạng của Kiều trở nên ngao ngán và chán nản hơn. Kiều nhìn ra bốn phía để tìm sự đồng điệu và tìm sự sẻ chia. Nhưng khung cảnh chỉ khiến cô thêm buồn và ảo tưởng. Quả thực, “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Dưới ánh mắt tuyệt vọng của Kiều, mỗi cảnh đều thấm đầy nỗi buồn chán, bế tắc và vô vọng. Điều đó càng đẩy Kiều rơi vào hố sâu của sự sầu muộn và tuyệt vọng.

Hai câu thơ cuối cùng của Kiều tập trung tả cảnh ngụ tình, sự hoang mang và rợn ngợp. Có thể coi như là đỉnh cao của nghệ thuật và được tác giả thể hiện rõ nhất trong hai câu thơ này:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Trong cảnh cuối, Nguyễn Du tài hoa miêu tả một khung cảnh thiên nhiên dữ dội, không chỉ là ngoại cảnh mà còn là tâm cảnh của Kiều. Nàng cảm thấy như mình không còn ở lầu Ngưng Bích mà đang ngồi giữa biển khơi rộng lớn, xung quanh là sóng biển gào thét như muốn nhấn chìm nàng. Từ láy “ầm ầm” vừa miêu tả khung cảnh khủng khiếp vừa diễn tả tâm trạng buồn lo, hoảng loạn của Thúy Kiều. Nàng đang dự cảm những giông bão của số phận, rồi đây sẽ nổi lên và nhấn chìm cuộc đời mình.

Đoạn thơ tả cảnh ngụ tình rất tinh tế và đầy nghệ thuật, mỗi cảnh là một tâm trạng, là một nỗi đau mà Kiều phải gánh chịu. Nguyễn Du miêu tả theo trình tự từ xa đến gần, từ màu sắc nhạt nhòa đến đậm nét, khắc họa nỗi buồn da diết của Kiều. Hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, lớp từ láy giàu giá trị tạo hình và biểu cảm đều góp phần tạo nên thành công cho đoạn trích.

Tám câu cuối, là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Qua những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của Kiều. Bức tranh này cũng cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.

3. Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình trong Kiều ở lầu Ngưng Bích hay nhất:

Trích đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích miêu tả tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Đây là một trích đoạn văn nổi tiếng, thành công trong việc miêu tả tâm trạng của nhân vật Thúy Kiều. Tác giả Nguyễn Du đã sử dụng một bút pháp nghệ thuật tuyệt vời để tả cảnh ngụ tình, giúp người đọc hiểu rõ hơn về tâm trạng của nhân vật chính. Đoạn trích này cũng cho thấy sự phong phú và đa dạng của nghệ thuật miêu tả trong văn học Việt Nam.

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Đoạn trích này miêu tả một cảnh vật đầy nỗi buồn, khiến người đọc cảm nhận được tâm trạng của nhân vật Kiều trước lầu Ngưng Bích.

“Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân

Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”

Bốn câu thơ trên đã tuyệt vời mô tả bức tranh thiên nhiên xung quanh lầu, đồng thời cũng là bức tranh tâm trạng tuyệt đẹp. Trong bối cảnh khốn khó và đầy bất ổn, cuộc sống của Kiều trở nên thật khó khăn. Mặc dù Tú bà đã đưa cô ra khỏi bức tường ngục của lầu Ngư Bích, tuy nhiên Kiều vẫn cảm thấy như bị giam giữ trong một ngục tù vô tận. Nàng luôn đau khổ và lo lắng cho tương lai của mình, không biết sẽ ra sao nếu không có sự giúp đỡ của Tú bà. Tuy nhiên, Kiều đã quyết tâm sẽ tìm cách vượt qua mọi khó khăn để có thể sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Nàng đứng một mình giữa không gian hoang vắng. Từ trên lầu cao, Kiều nhìn ra xa xăm, nhìn thấy những ngọn núi xa mờ, những đống cát vàng, và chỉ có một vầng trăng gần kề. Những hình ảnh xa xôi giúp nhấn mạnh không khí hoang vắng, rộn ràng của tâm trạng của Kiều.

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”

Nhìn mây sớm sớm, đối diện với ngọn đèn cảnh người cùng thức khuya sẻ chia cùng ai hoặc một mình với vầng trăng, người bạn thân thiết nhất. Vầng trăng sáng đã gợi Kiều nhớ về quá khứ.

“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng

Tin sương luống những rày trong mai chờ

Bên trời góc bể bơ vơ

Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”

Trái tim Kiều đau đớn và xót xa khi nhớ về Kim Trọng, cô tự trách mình đã không giữ được lòng trung thành và cảm thấy như tấm son đã bị lau sạch, không còn gì để giữ lại. Tất cả những nỗi đau và tình cảm trong quá khứ cứ vò nát và vò xé cô từng giây từng phút, đến khi nào cô mới có thể quên đi và bắt đầu một cuộc sống mới?

Xót người tựa cửa hôm mai

Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ

Sân Lai cách mấy nắng mưa

Có khi gốc tử đã vừa người ôm”

Kiều rất quan tâm đến cha mẹ, lo lắng vì họ khi già yếu và không ai trông nom họ. Kiều là người hiếu thảo và luôn nhớ đến quê hương và gia đình. Trong khi đó, cha mẹ của Kiều càng ngày càng yếu và không có ai chăm sóc họ. Dù vậy, Kiều vẫn không quên tình cảm của mình và tình cảm này được thể hiện rõ trong cảnh ngộ ở lầu Ngưng Bích. Đoạn trích này còn thể hiện sự khách quan và độc đáo của nhà thơ.

“Buồn trông cửa bể chiều hôm

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Đây là một đoạn thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc, biểu đạt nội tâm nhân vật và xúc cảm trong cảnh tình. Mỗi câu “buồn trông“ lại mô tả một khung cảnh và nỗi buồn khác nhau, tạo nên một không khí buồn đầy cảm xúc, giống như sóng xô dập ngập lòng Kiều.

Có thể đó là hình ảnh người đơn độc trôi dạt trên dòng đời. Cô ấy sợ hãi và nhớ về gia đình yêu thương ở quê hương.

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu “

Đây là câu thơ về cuộc đời của Thúy Kiều, người phụ nữ không khác gì cánh hoa trôi nổi trên mặt nước, không biết đi đâu hay về đâu, bị dập vùi bởi mưa gió, và cuối cùng đến nơi nào?

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh”

Kiều rất buồn khi nghĩ đến số phận của cỏ, cây, hoa. Đó là những thứ vô giá trị, không có chỗ đứng nào trên trái đất. Tâm trạng này khiến Kiều đau khổ không thôi.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi”

Sóng gió ào ạt quanh ghế ngồi, cảm giác tai họa đang đến gần. Cảnh tượng tâm trạng nỗi buồn càng lớn, dồn lại thành cao trào với tiếng sóng xô đẩy dồn dập vào cuộc sống Kiều.

Bài văn về Kiều ở lầu Ngưng Bích của tác giả Nguyễn Du đã mô tả một cách tinh tế tâm trạng của nhân vật Kiều khi cô đơn ở lầu Ngưng Bích. Điều này được thể hiện thông qua việc sử dụng bút pháp nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, trong đó tác giả đã mô tả chi tiết cảnh vật xung quanh, tạo nên một bầu không khí u tối và trống trải. Những cảm xúc khó tả của Kiều cũng được tác giả khéo léo thể hiện thông qua các suy nghĩ và hành động của nhân vật, từ đó tạo nên một hình ảnh chân thực về tâm trạng của Kiều trong tình trạng cô đơn và buồn bã. Ngoài ra, bài văn cũng đề cập đến sự đặc sắc và thành công của nhân vật Kiều, vốn là một trong những điểm nhấn của tác phẩm Truyện Kiều.