Lý thuyết Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873-1884)

Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873-1884) kiến thức thuộc bài 25 trong chương trình Lịch sử lớp 8. Đây là thời kì Pháp đánh chiếm Bắc Kì hai lần dẫn đến sự sụp đổ của triều đại nhà Nguyễn và mở ra thời kì thuộc địa nửa phong kiến. Sau đây là Lý thuyết bài Kháng chiến lan rộng ra toàn quốc (1873-1884).

1. Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần 1:
1.1. Thực trạng Việt Nam trước khi Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần 1:
Tình hình Việt Nam trước khi Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất là rất khó khăn và bất ổn. Sau khi Pháp chiếm xong ba tỉnh miền Đông Nam Kì, thực dân Pháp đã bắt tay vào thiết lập bộ máy thống trị và bóc lột kinh tế, biến nơi đây thành bàn đạp để đánh chiếm Cam-pu-chia rồi chiếm nốt ba tỉnh miền Tây Nam Kì. Pháp cũng phái gián điệp ra Bắc điều tra tình hình bố phòng của Việt Nam và lôi kéo các tín đồ công giáo lầm lạc, kích động họ nổi dậy chống phá triều đình.

Triều đình Huế thi hành chính sách đối nội, đối ngoại lỗi thời. Triều Nguyễn tiếp tục chính sách “bế quan tỏa cảng”, không quan tâm đến sự thay đổi của thế giới. Nội bộ triều đình chia thành hai phái: chủ hòa và chủ chiến, gây ra sự li tán trong lòng dân. Một số quan lại, sĩ phu yêu nước đề xướng cải cách, canh tân đất nước, nhưng triều đình nhà Nguyễn tiếp nhận các ý kiến canh tân một cách nửa vời, thiếu kiên quyết. Triều đình còn ra sức vơ vét tiền của trong nhân dân để phục vụ cho cuộc sống xa hoa và bồi thường chiến phí cho Pháp.

Kinh tế Việt Nam ngày càng kiệt quệ. Các ngành kinh tế công, nông, thương nghiệp sa sút. Tài chính thiếu hụt, binh lực suy yếu. Đời sống nhân dân cơ cực, hàng loạt cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra bị đàn áp dữ dội. Nhân dân Việt Nam không ngừng chiến đấu chống lại triều đình và thực dân Pháp.

1.2. Diễn biến Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần 1:
Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần thứ nhất (1873) là một sự kiện quan trọng trong lịch sử Việt Nam, chứng tỏ âm mưu xâm lược của thực dân Pháp và tinh thần kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Dưới đây là diễn biến của sự kiện này:

- Sau khi chiếm được Nam Kì, Pháp muốn mở rộng ảnh hưởng ra cả nước. Pháp lợi dụng việc triều đình nhà Nguyễn nhờ Pháp đem tàu ra vùng biển Hạ Long đánh dẹp “hải phỉ”, chúng cho tên lái buôn Đuy-puy vào gây rối ở Hà Nội. Lấy cớ giải quyết vụ Đuy-puy, Pháp cử Gác-ni-ê chỉ huy 200 quân kéo ra Bắc.

- Ngày 20/11/1873, quân Pháp nổ súng đánh và chiếm thành Hà Nội. Từ đó, chúng nhanh chóng đánh chiếm các tỉnh Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình, Nam Định. Trong khi đó, triều đình Huế do chia rẽ nội bộ và thiếu quyết tâm không có biện pháp kịp thời để ứng phó.

- Nhân dân Bắc Kì không chịu khuất phục, đã tự giác tổ chức kháng chiến. Một số quan lại và sĩ phu yêu nước cũng tham gia chỉ huy quân dân. Trong các trận đánh, có nhiều anh hùng đã hy sinh, như Nguyễn Tri Phương - Tổng đốc thành Hà Nội, Nguyễn Lâm - con trai ông, hay 100 binh lính đã chiến đấu và anh dũng hi sinh tại ô Quan Chưởng. Trận Cầu Giấy (21/12/1873) là trận đánh gây tiếng vang lớn khi Gác-ni-ê tử trận.

- Tuy nhiên, do thiếu vũ khí và quân số, kháng chiến của nhân dân Bắc Kì không thể duy trì được lâu. Triều đình Huế lại ký với Pháp Hiệp ước 1874 (Hiệp ước Giáp Tuất), theo đó nhượng cho Pháp toàn bộ Bắc Kì và các quyền lợi kinh tế ở Trung Kì. Đây là một hiệp ước bất công và bán nước.

2. Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần 2:
2.1. Thực trạng Việt Nam trước khi Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần 2:
Sau khi kí Hiệp ước Giáp Tuất năm 1874, triều đình Huế đã nhượng bộ cho Pháp quyền thống trị ba tỉnh miền Đông Nam Kì, Cam-pu-chia và một số quyền lợi kinh tế ở Bắc Kì. Pháp đã lợi dụng hiệp ước này để xâm chiếm thêm ba tỉnh miền Tây Nam Kì vào năm 1879 và tiến hành bóc lột kinh tế, văn hóa, chính trị ở các vùng đất bị chiếm đóng. Pháp cũng không ngừng tìm cách mở rộng ảnh hưởng của mình ở Bắc Kì và Trung Kì, gây áp lực lên triều đình Huế để nhận được nhiều quyền lợi hơn.

Triều đình Huế trong thời gian này vẫn duy trì chính sách bế quan tỏa cảng, không chịu cải cách canh tân đất nước. Triều đình chỉ quan tâm đến việc duy trì ngôi vị của mình, không quan tâm đến số phận của nhân dân, cộng thêm chia rẽ thành hai phe chủ chiến và chủ hòa, gây mất đoàn kết trong nội bộ. Vì vậy mà triều Nguyễn đã phải đối mặt với sự phản đối của các cuộc khởi nghĩa nông dân do nhân dân chịu đựng sự bóc lột của triều đình và thực dân Pháp.

Năm 1882, Pháp đã tiến hành cuộc xâm lược Bắc Kì lần thứ hai do Rí-vo-lí chỉ huy. Pháp đã chiếm được Hà Nội, Hải Dương, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình và các tỉnh lân cận. Nhưng nhân dân Bắc Kì đã không ngừng kháng chiến chống lại kẻ xâm lược bằng nhiều hình thức như: nổi dậy, phục kích, đánh giặc trong thành, ngoài thành... Những cuộc kháng chiến tiêu biểu có thể kể đến như: khởi nghĩa của Hoàng Hoa Thám, Đề Thám, Cao Thắng; khởi nghĩa của Phan Đình Phùng; khởi nghĩa của Nguyễn Trung Trực...

2.2. Diễn biến Pháp đánh chiếm Bắc Kì lần 2:
- Nguyên nhân: Sau Hiệp ước Giáp Tuất năm 1874, Pháp muốn chiếm hết Bắc Kì để khai thác tài nguyên khoáng sản và mở rộng ảnh hưởng. Pháp lấy cớ triều đình Huế vi phạm hiệp ước bằng cách cản trở sự đi lại của người Pháp trên sông Hồng và giao thiệp với nhà Thanh để đưa quân xâm lược.

- Diễn biến: Ngày 3-4-1882, quân Pháp do Ri-vi-e chỉ huy kéo ra Hà Nội khiêu khích. Ngày 25-4-1882, Ri-vi-e gửi tối hậu thư cho Tổng đốc thành Hà Nội là Hoàng Diệu yêu cầu nộp thành không điều kiện. Không đợi trả lời, Pháp nổ súng tiến công và chiếm thành Hà Nội sau một cuộc chiến ác liệt. Hoàng Diệu thắt cổ tự vẫn. Triều đình Huế vội cầu cứu nhà Thanh, nhưng quân Thanh không giúp ích gì mà chỉ đóng quân ở nhiều nơi trong nước ta. Quân ta chống cự quyết liệt nhưng cuối cùng thành Hà Nội vẫn bị rơi vào tay giặc. Quân Pháp nhanh chóng đi đánh chiếm Hòn Gai, Nam Định và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.

- Kết quả của cuộc xâm lược là Pháp đã hoàn thành việc chiếm đóng Bắc Kì và tiến hành thiết lập bộ máy thống trị thuộc địa. Triều đình Huế đã sụp đổ hoàn toàn trước sức ép của Pháp và nhà Thanh. Nhân dân Bắc Kì đã phải chịu sự áp bức và bóc lột tàn khốc của thực dân Pháp.

Nhưng nhân dân Bắc Kì không chịu khuất phục, tiếp tục kháng chiến gắn bó với nhau. Nhân dân Hà Nội phối hợp với nhân dân các vùng xung quanh đào hào, đắp lũy, lập các đội dân dũng. Tại các địa phương, nhân dân đắp đập, cắm kè trên sông làm hầm chông, cạm bẫy,… chống Pháp. Khi Ri-vi-e đánh Nam Định, quân ta từ Sơn Tây và Bắc Ninh kéo về áp sát thành Hà Nội, ngày đêm tập kích, phục kích, đốt phá kho tàng doanh trại của địch. Cuộc kháng chiến ở Bắc Kì kéo dài từ năm 1882 đến năm 1884, khiến cho Pháp phải bỏ ra rất nhiều quân lực và tiền của để duy trì chiến tranh xâm lược.

3. Hiệp ước Pa-tơ-nốt:
Hiệp ước Pa-tơ-nốt là một hòa ước được ký kết giữa nhà Nguyễn và thực dân Pháp vào ngày 6 tháng 6 năm 1884 tại kinh đô Huế. Đây là hòa ước cuối cùng trong quá trình Pháp xâm lược Việt Nam, đánh dấu sự sụp đổ của nhà nước phong kiến Việt Nam.

Nguyên nhân kí hiệp ước: Pháp muốn củng cố quyền bảo hộ của mình ở Việt Nam, sau khi đã ký hòa ước Hác-măng với triều đình Huế vào năm 1883. Tuy nhiên, hòa ước Hác-măng gặp phải sự phản đối mạnh mẽ của dư luận và các vị vua nhà Nguyễn. Pháp cũng muốn loại bỏ sự can thiệp của nhà Thanh, sau khi đã ký hòa ước Thiên Tân với Trung Quốc vào năm 1884, trong đó nhà Thanh công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt Nam.

Nội dung của hiệp ước Pa-tơ-nốt gồm có 19 điều khoản, chủ yếu giống với hòa ước Hác-măng, chỉ có một số điều khoản được sửa đổi hoặc bổ sung để xoa dịu sự bất mãn của triều đình Huế. Các điều khoản chính có thể kể đến như sau:

- Việt Nam đặt dưới sự bảo hộ của Pháp, không có quyền ngoại giao tự do.

- Việt Nam được chia thành ba kỳ: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, mỗi kỳ có một chế độ cai trị riêng. Nam Kỳ là thuộc địa trực tiếp của Pháp, Bắc Kỳ và Trung Kỳ là xứ bảo hộ, nhưng triều đình Huế chỉ còn quyền kiểm soát trên danh nghĩa.

- Pháp có quyền đóng quân và xây dựng các cơ sở quân sự ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

- Pháp có quyền kiểm soát toàn bộ các nguồn lợi kinh tế trong nước, như thuế, thu nhập, thương mại, khai thác tài nguyên.

- Pháp trả lại cho Trung Kỳ các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh (trước thuộc Bắc Kỳ) và tỉnh Bình Thuận (trước thuộc Nam Kỳ).

Ý nghĩa:

- Biến Việt Nam thành thuộc địa hoàn toàn của Pháp, mất đi chủ quyền và độc lập quốc gia. Hiệp ước này cũng đã phân chia Việt Nam thành ba kỳ riêng biệt, gây ra sự rạn vỡ về lãnh thổ và dân tộc.

- Mở ra một thời kì bóc lột khốc liệt của thực dân Pháp đối với người dân Việt Nam, gây ra nhiều khổ đau và nghèo đói.

- Khơi dậy sự kháng chiến quyết liệt của nhân dân Việt Nam chống lại sự xâm lược của Pháp, kéo dài đến Cách mạng Tháng Tám năm 1945.