Hoài Vũ - Tác giả của những khúc ca đi cùng năm tháng

Hoài Vũ

Cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Hoài Vũ

Những người yêu thơ và nhạc ở Việt Nam có lẽ không ai là không biết và yêu thích những bài ca nổi tiếng đi cùng năm tháng như "Vàm Cỏ Đông", "Anh ở đầu sông em cuối sông", "Đi trong hương tràm", "Chia tay hoàng hôn". Các tác phẩm này do những nhạc sĩ nổi tiếng như Trương Quang Lục, Phan Huỳnh Điểu, Thuận Yến phổ nhạc, và phần lời là từ những bài thơ của nhà thơ Hoài Vũ. Nhờ sự kết hợp tuyệt vời này, thơ của Hoài Vũ ngày càng cất cánh bay cao, đi sâu vào lòng người.

Tuy nhiên, do sơ suất của các chương trình nghệ thuật và các biên tập viên, nhiều lúc các bài hát đến với công chúng chỉ giới thiệu tác giả phần nhạc mà quên đi tác giả phần lời. Điều này đã dẫn đến việc mọi người biết đến nhạc phẩm "Chia tay hoàng hôn" của nhạc sĩ Thuận Yến, nhưng ít ai biết tác giả phần lời của bài hát này là nhà thơ Hoài Vũ, với nguyên bản bài thơ mang tên "Hoàng hôn lặng lẽ". Bài thơ chứa đựng những ca từ đầy cảm xúc: "Anh phải về thôi, xa em thôi! / Ngoài kia phiên chợ vãn lâu rồi / Giọt nắng cuối ngày rơi xuống tóc / Mà lời từ biệt chẳng lên môi…".

Hoài Vũ, tên thật là Nguyễn Đình Vọng, sinh năm 1935 tại huyện Mộ Đức, Quảng Ngãi. Mặc dù quê gốc ở Quảng Ngãi, nhưng sự nghiệp và văn chương của ông lại gắn liền với vùng đất và con người Nam bộ. Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước cách mạng, từ năm 12 tuổi, Hoài Vũ đã được vào học tại Trường Thiếu sinh quân khu 5. Năm 1954, khi vừa tròn 18 tuổi, ông tập kết ra Bắc và được cử đi du học tại khoa Văn học Trường Đại học Bắc Kinh. Sau khi tốt nghiệp, ông được Đảng cử trở lại miền Nam chiến đấu từ rất sớm. Năm 1963, ông cùng các văn nghệ sĩ như Trần Đình Vân, Ngô Y Linh, Kim Chi, Hồng Sến, Thái Ly… đã có mặt ở chiến trường Nam bộ (B2) để hoạt động trên lĩnh vực văn hóa văn nghệ. Với tài năng thơ ca thiên bẩm, Hoài Vũ sớm trở thành một gương mặt sáng giá của thơ ca cách mạng miền Nam.

Thơ Hoài Vũ lấy đề tài từ những miền đất và con người của xứ sở Nam bộ. Con sông Vàm Cỏ Đông chảy xuyên tỉnh Long An trở nên nổi tiếng nhờ bài thơ "Vàm Cỏ Đông" được ông sáng tác từ năm 1963, ngay khi ông vừa đặt chân đến Long An. Bài thơ này đã trở thành hình tượng trữ tình với những câu thơ chan chứa tình người: "Anh ở đầu sông em cuối sông / Uống chung dòng nước Vàm Cỏ Đông / Thương nhau đã chín bao mùa lúa / Chưa ngày gặp lại, nhớ mênh mông". Khi bài thơ được phổ biến trên Đài Tiếng nói Việt Nam vào năm 1966, bài hát "Vàm Cỏ Đông" với phần phổ nhạc của Trương Quang Lục cũng ra đời, từ đó dòng sông Vàm Cỏ của miền Đông Nam bộ trở nên thân thuộc với đồng bào cả nước.

Thơ của Hoài Vũ còn phản ánh những tên đất tên người của miền Đông Nam bộ, ngày càng được phổ biến rộng rãi và trở nên nổi tiếng. Bài thơ "Đi trong hương tràm" được ông sáng tác năm 1971 và được phổ nhạc bởi nhạc sĩ Thuận Yến là một ví dụ điển hình: "Gió Tháp Mười đã thổi, thổi rất sâu / Có nỗi thương đau, có niềm hy vọng / Bầu trời thì cao, cánh đồng thì rộng / Hương tràm bên anh mà em đi đâu?". Những lời thơ nói về sự chia cắt của tình người trong chiến tranh như những vết cứa vào trái tim những người đang yêu.

Hoài Vũ đã từng kể về những năm tháng gian khổ đó: "Năm 1968, khi theo đại quân vào Sài Gòn, không may tôi bị sốt rét phải nằm lại Trạm giao liên Đồng Tháp Mười. Tại đây, tôi đã gặp 5 - 6 nữ giao liên. Tôi đặc biệt có cảm tình với một cô tên là Lan. Đến năm 1971, khi tôi quay lại thì cả rừng tràm đã xác xơ vì bom đạn tàn phá và tôi rất buồn khi biết tin Lan đã hy sinh. Một đêm, cảm xúc đau xót và mất mát ùa ra, tôi viết ngay được bài thơ 'Đi trong hương tràm', trong đó có hai câu: 'Bầu trời thì cao, cánh đồng thì rộng / Hương tràm bên anh mà em đi đâu?'...". Hương tràm thơm ngát tình yêu ấy của Hoài Vũ còn đọng mãi trong lòng bạn đọc cũng như vẫn đọng mãi trong những nốt nhạc du dương của Thuận Yến.