Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm "Vợ nhặt" (Mẫu 2)

Lập dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân

1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả tác phẩm và nhân vật bà cụ Tứ.
2. Thân bài
a. Hoàn cảnh bà cụ Tứ:
- Sống giữa nạn đói khủng khiếp những năm 1944-1945.
- Góa chồng, sống cùng con trai trong ngôi nhà lụp xụp ở xóm Ngụ Cư.
- Chân dung: Gầy yếu, bệnh tật miệng “húng hắng ho”, dáng người “lọng khọng”, luôn “lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”.
- Phải chịu những dày vò, day dứt về chuyện không thể lo nổi cho cậu con trai duy nhất một người vợ, chỉ vì bà nghèo quá.
b. Tâm trạng cụ Tứ và vẻ đẹp tình mẫu tử khi anh Tràng dẫn người vợ nhặt về nhà:
- Bất ngờ, không dám tin vào tai mình khi nghe anh con trai giới thiệu về người vợ mới. => Sự từng trải, biết lắng nghe, chia sẻ, cũng là tấm lòng tin tưởng, yêu thương con của một người mẹ hiểu lý lẽ.
- Sau khi nghe anh Tràng giải thích hết câu chuyện cưới vợ lạ lùng, bà bỗng “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”. Bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, xót xa, tủi cho phận mình, phận con, nỗi xúc động ấy khiến“trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”.
Nhanh chóng thoát ra khỏi những nỗi buồn rầu trong lòng, vực lại tinh thần, chấp nhận mối hôn sự chớp nhoáng của cậu con trai.
- Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”.

phan-tich-truyen-ngan-vo-nhat-1700500269.jpg


c. Tâm trạng của bà cụ khi đối diện với thị và tấm lòng bao dung cảm thông sâu sắc:
- Thấu hiểu cho cái khó của thị “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”.
- Ánh nhìn đăm đăm vào thị, là cái nhìn của sự thấu hiểu, xót xa cho một kiếp người tàn tạ, thương cảm cho phận một người phụ nữ không được cưới hỏi đàng hoàng.
- Nghĩ rằng cũng may có thị xuất hiện thì con trai bà mới có được tấm vợ, có được cuộc sống gia đình điền viên.
- Nhanh chóng thấy thân thiết với người con dâu mới, nhẹ nhàng săn sóc thị “Con ngồi xuống đây, ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”, để khiến cho thị đỡ ngại ngùng bỡ ngỡ trước tổ ấm mới.
- Thấy sự rụt rè của thị, lòng bà lại tràn đầy thương xót, thân mật, giải thích cho thị về chuyện không có cỗ bàn đám cưới, lòng hy vọng thị sẽ không trách cho cái nghèo khó của mẹ con bà, mà cùng yêu thương vun vén hạnh phúc với Tràng.
- Thủ thỉ tâm sự “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, ấy là tấm lòng yêu thương con trai, con dâu, sự xót xa của người làm mẹ trước cảnh khổ cực của con cái.
d. Tâm trạng cụ Tứ vào buổi sáng hôm sau và vẻ đẹp của niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt vào cuộc sống:
- Gieo niềm tin, niềm hy vọng ấy vào tâm trí con trai con dâu mình bằng những lời thủ thỉ tâm tình rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?.
- Nói về những chuyện tốt đẹp trong tương lai, nào là chuyện nuôi gà đẻ trứng, chuyện làm ăn.
- Chiêu đãi các con bằng nồi “chè khoán”.
3. Kết bài:
Nêu cảm nhận chung.