Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

Trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích", Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp "tả cảnh ngụ tình" một cách khéo léo đặc biệt là trong 8 câu thơ cuối trong đoạn trích. Dưới đây là một số mẫu: Cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích, mời các bạn đón đọc.

Phân tích Kiều ở lầu Ngưng Bích (Sơ đồ tư duy + 20 mẫu) - Văn 9

1. Bài văn cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích ngắn chọn lọc:

Tám câu thơ cuối trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” chắc có lẽ là tám câu thơ tả cảnh ngụ tình hay nhất trong tác phẩm, qua đó đã diễn tả sinh động tâm trạng của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, để lại ấn tượng sâu sắc không thể nào quên cho đọc giả:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Hình ảnh cánh buồm thoáng ngoài biển xa mênh mông trong buổi chiều đưa ta đến với không gian xa lắc của quê hương, tĩnh lặng, lồng ghép hài hòa với nỗi nhớ da diết trong lòng kiều. Hình ảnh “hoa trôi man mác” tường tận miêu tả bông hoa trôi nổi, bấp bênh trên mặt nước, bị sóng biển vùi dập, xô đẩy, kể lể tâm trạng buồn tủi và những dự cảm tinh tế về tương lai không biết sẽ đi đâu về đâu của Thúy Kiều. Cánh hoa mỏng manh như ôm nỗi lo, sự đau đớn trước tương lai không chắc chắn trên dòng đời. Hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” dẫu kéo dài đến “chân mây” vẫn chỉ một màu xanh héo úa, tạo nên một cảnh u ám, héo hắt, khiến người đọc cảm nhận nỗi buồn triền miên và tuyệt vọng của Thúy Kiều. Hai câu thơ cuối cùng với cảnh “gió cuốn mặt duềnh” và âm thanh “ầm ầm tiếng sóng” tái hiện rõ ràng hình ảnh, âm thanh của bão táp sắp ập đến cuộc đời Thúy Kiều, gợi lên nỗi sợ hãi trong lòng người con gái tài hóa trước những tai họa đe dọa. Bên cạnh đó, Nguyễn Du sử dụng từ “buồn trông” ở đầu những câu thơ để nối kết các hình ảnh thành một chuỗi sầu thảm. Từ “buồn trông” lặp lại bốn lần trong bốn cặp lục bát tạo nên âm hưởng trầm, buồn, thể hiện sự kéo dài dằng dặc của nỗi sầu trong tâm trạng nhân vật. Tám câu thơ, bốn hình ảnh thiên nhiên, bốn điệp ngữ đã xuất sắc diễn tả những sắc thái nội tâm phong phú và tinh tế của Thúy Kiều.

2. Bài văn cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích đạt điểm cao:

Đại thi hào Nguyễn Du là bậc thầy sử dụng ngôn ngữ cũng như việc sử dụng các bút pháp nghệ thuật để miêu tả cảnh vật, miêu tả con người, đặc biệt là miêu tả nội tâm nhân vật. Một trong những đoạn trích miêu tả nội tâm nhân vật xuất sắc nhất của Nguyễn Du chính là đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Qua tám câu thơ cuối của đoạn trích, ta có thể thấy được tâm trạng đau đớn, buồn tủi và cô đơn của nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích và tài năng nghệ thuật xuất sắc của đại thi hào.

Tám câu thơ cuối đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể được coi là đỉnh cao trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình của đại thi hào Nguyễn Du. Bốn cặp thơ lục bát không chỉ cho thấy được đau đớn, cô đơn tột cùng của Thuý Kiều khi bị giam lỏng ở chốn lầu Ngưng Bích mà còn mang những dự cảm về một tương lai sóng gió, gập ghềnh.

Mở đầu mỗi bức tranh tâm trạng là điệp ngữ “buồn trông”. “Buồn trông” lặp lại bốn lần tạo thành điệp khúc trầm buồn, bộc lộ nội tâm nhân vật với nỗi buồn đang dâng lên tầng tầng lớp lớp, ngập tràn trong tâm hồn. Cảnh vật nơi lầu Ngưng Bích như thấu hiểu, đồng điệu với nỗi đau của Thúy Kiều nên mỗi hình ảnh mà nàng nhìn đều thấm đượm một nỗi buồn da diết.

“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa”

Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều được khai thông nhờ hình ảnh của ánh hoàng hôn. Ánh hoàng hôn đã nhuộm đỏ toàn bộ cả bức tranh, không chỉ là không gian rộng lớn mà còn là thời gian trôi đi. Theo con mắt của Kiều, ánh hoàng hôn ấy mang trong mình sự buồn bã và u uất, giống như tấp nập những nỗi đau đang đổ tràn trong tâm hồn của cô. “Chiều hôm” được định nghĩa là khoảng thời gian dần chìm vào đêm tối, thời điểm yên lặng và thường khiến lòng người khơi lên những tâm sự buồn. Không gian chiều tà rộng lớn làm cho Kiều cảm nhận sự cô đơn, tình cảnh khó khăn và trớ trêu của mình tại nơi lầu xanh “khoá xuân”. Sự tương đồng trong không gian càng làm cho tâm hồn của cô gái xa nhà thêm buồn bã, cô đơn và đau xót. Trong mênh mông dòng nước vô tận đó đã lẻ loi, Kiều mong muốn một chút ấm áp, sự hiện diện của sự sống để đánh tan cô đơn trong lòng mình. Và bóng “thuyền ai thấp thoáng” chính là biểu tượng của sự sống con người. Tuy nhiên, đó chỉ là một chiếc thuyền không rõ ràng, không rõ tưởng hay thật, và chỉ “thấp thoáng” trong khoảng “xa xa”. Nguyễn Du đã sử dụng từ ngữ “thấp thoáng” và “xa xa” để nhấn mạnh tính nhỏ bé, xa xôi và hư ảo của con thuyền tại cửa bể. Chiếc thuyền lênh đênh tại “cửa bể” mờ mịt, không có bến, không có bờ, bất định như cuộc đời của Kiều hiện tại. Nhìn vào con thuyền – biểu tượng của sự sống con người, cứ ngỡ như nó sẽ mang đến một chút ấm áp cho Kiều, nhưng ngược lại nó lại gợi lên sự cô quạnh, đồng thời khơi dậy nỗi buồn vô tận trong tâm hồn xa rời của Kiều. Thay vì nhìn xa tới “cửa bể” với hy vọng tìm thấy sự chia sẻ ấm áp, Kiều buộc phải nhìn về phía mảnh đất gần kề bên mình.

“Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?”

Trong cuộn xoáy của dòng nước bên dưới chân Kiều, những cánh hoa xoay tròn và rồi bị cuốn trôi đi. Những cánh hoa mong manh đó tượng trưng cho số phận của người phụ nữ, bị chìm nổi giữa cuộc sống, gợi cho ta nhớ về số phận của Kiều – một người phụ nữ đẹp thoáng qua cuộc đời, lênh đênh. Những cánh hoa đó nổi trôi bồng bềnh “bảy nổi ba chìm”, giống như số phận hiện tại của Kiều. Câu hỏi tu từ “hoa trôi man mác biết là về đâu?” xuyên thẳng vào lòng người đọc, đem đến những suy tư, xót xa về cuộc sống mong manh và cô đơn của Kiều, được lạc lõng và phiêu bạt dọc biên giới của chốn xa xôi. Hai từ “về đâu” cuối câu thơ, với hai dấu hỏi, tạo nên sự không rõ ràng, suy đoán, giống như tình thế hiện tại của Kiều. Điềm đạm ngồi một mình ở chốn thanh lâu, Kiều khao khát tìm đến với tự nhiên để giảm bớt nỗi buồn, tủi hờn và cô đơn trong lòng, tuy nhiên, nhìn thấy Kiều, con mắt ta lại càng nhận thấy sự buồn tủi và nặng nề của cuộc đời cô. Nhìn về dòng nước, về cửa biển, không thấy chút lòng thân thiết và an ủi, Kiều quay trở lại với những cánh cỏ xanh bên bờ:”

“Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt nước một màu xanh xanh”

Cỏ xanh xao lả đứng trước mắt liệu có giúp nàng xoa dịu những lo âu? Nhưng tất cả chỉ mang màu úa tàn, buồn tẻ. Những cánh cỏ non xanh tươi như ngày xưa giờ cũng rơi vào màu tâm trạng mơ hồ của đời người. Cảnh vật từ xa đến gần, từ chân trời đến cuối nước, đều mang màu xanh ảm đạm. Câu thơ đã tả lộ tâm trạng u ám và buồn rầu của Kiều. Nỗi buồn ấy còn thấm vào cảnh vật và không gian. Dù ban đầu nó là một khoảng trống rộng lớn với màu xanh nhẹ nhàng của cỏ non và chân trời, qua mắt Kiều, nó trở nên u ám và đau buồn khắc sâu. Không âm thanh, không tiếng động, chỉ có sự im lặng đến tột cùng bao phủ cả cảnh và con người. Nguyễn Du đã sử dụng tài tả cảnh ngụ tình để làm nổi bật tâm trạng u sầu và tuyệt vọng của Thúy Kiều. Trong cảnh vắng lặng đến chán ngấy đó, Kiều mong muốn nghe thấy giọng nói của con người để cảm thấy an ủi, để không cảm thấy cô đơn đến tuyệt vọng trong lòng. Nhưng thay vì đáp lại, âm thanh chỉ có tiếng sóng, tiếng gió, tiếng nước của thiên nhiên.

“Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng vây quanh ghế ngồi”

Tất cả các yếu tố tự nhiên xung quanh như gió, nước và sóng đều thể hiện sự lênh đênh và nổi trôi của Kiều. Tiếng sóng “ầm ầm” lan truyền quanh cô khiến cô cảm thấy sợ hãi, bởi nó tượng trưng cho một dự cảm và một dấu hiệu cho tương lai rối ren và đầy sóng gió của Kiều. Tiếng sóng “ầm ầm” xung quanh chiếc ghế cô đang ngồi cũng tạo nên diễn biến tâm trạng đau lòng của Kiều. Bởi vì xung quanh cô chỉ có thiên nhiên im lặng đến đáng sợ, không có một chút tình cảm ấm áp nào của con người. Qua 8 câu thơ, chúng ta có thể cảm nhận được sự tài hoa của Nguyễn Du trong việc miêu tả cảnh và ám chỉ tình huống trong Kiều. Từ “buồn trông” cũng tạo nên một giai điệu buồn bã, đây là câu mở đầu cho tám câu thơ. Hơn nữa, Nguyễn Du cũng sử dụng khéo léo hệ thống từ láy để tạo ra một tác phẩm tả hình tâm trạng của Kiều đặc sắc. Nhịp thơ biến đổi linh hoạt cùng với ngôn ngữ giàu chất tạo hình, tất cả cùng nhau tạo nên thành công của bức tranh tâm trạng của Kiều. Tám câu thơ cuối cùng trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích cũng cho chúng ta thấy tâm trạng của Kiều khi bị lừa và giam cầm thông qua việc miêu tả nội tâm đặc sắc của nhà thơ vĩ đại Nguyễn Du. Đồng thời nó còn cho chúng ta nhìn thấy rõ sự thấu hiểu và lòng trắc ẩn sâu sắc cho số phận của những người phụ nữ tài hoa nhưng bất hạnh. Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một trong những phần hay nhất trong tuyệt phẩm truyện Kiều.

 3. Dàn ý cảm nhận 8 câu thơ cuối bài Kiều ở lầu Ngưng Bích:

I. Mở bài giới thiệu tác giả và đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, cũng như giới thiệu 8 câu cuối của đoạn thơ.

Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, tác giả Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh để gợi lên nỗi buồn của Kiều khi nghĩ về cha mẹ, những người đã sinh ra nàng. Cặp lục bát thứ nhất phân tích hai hình ảnh “cửa bể chiều hôm” và “cánh buồm xa xa” để miêu tả trạng thái đau đớn của Kiều. Cặp lục bát thứ hai phân tích hai hình ảnh “ngọn nước mới sa” và “hoa trôi man mác” để gợi lên nỗi mông lung và lo lắng của Kiều về tương lai. Cặp lục bát thứ ba phân tích hai hình ảnh “nội cỏ rầu rầu” và “chân mây mặt đất” để miêu tả sự mơ hồ của Kiều. Cặp lục bát thứ tư sử dụng hai hình ảnh “gió cuốn mặt duềnh” và “tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi” để thể hiện sự sợ hãi và hoảng hốt của Kiều trước những khó khăn trên cuộc đời.

Trong đoạn thơ này, điệp từ “buồn trông” được nhắc đi nhắc lại, chính như tâm trạng của Kiều lúc này, đúng là “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

II. Tổng kết nghệ thuật:

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một bức tranh được vẽ với những màu sắc xám lạnh, gợi lên tâm trạng sống động và đầy oán trách. Nghệ thuật “tả cảnh ngụ tình” của Nguyễn Du được phân tích, và cảnh vật cùng với nhân vật trong đoạn trích hòa quyện thành một.

III. Kết bài:

Trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp “tả cảnh ngụ tình” một cách khéo léo. Cảnh vật và nhân vật trong đoạn trích hòa quyện thành một, tạo nên một bức tranh xám lạnh mang đậm tâm trạng sống động và oán trách. Đây là một ví dụ điển hình cho nghệ thuật của Nguyễn Du trong việc miêu tả cảnh ngụ tình.