Tác phẩm "Vợ Nhặt" của Kim Lân: Hình ảnh sống động về đời thường Việt Nam trong thời kỳ nạn đói 1945

Vợ Nhặt

Có những chi tiết trong văn học khiến ta không thể quên, bởi chúng mang trong mình sức mạnh làm xao động lòng người, đọng lại mãi trong tâm trí, như "bát cháo hành" của Thị Nở trong "Chí Phèo" (Nam Cao), hay "nồi cháo cám" của bà cụ Tứ trong "Vợ Nhặt" (Kim Lân). Nếu "bát cháo hành" là loại thuốc giải độc dành cho những "ác quỷ" như Chí Phèo, giúp họ trở về với cuộc sống đạo đức, thì "nồi cháo cám" chính là biểu hiện của tấm lòng mẹ thương yêu, đầy cảm động đối với con cái trong bữa cơm đầy nghèo khó.

Khi mở trang sách, hình ảnh "người mẹ tươi cười, đon đả" lại hiện về rõ ràng như thật trước mắt, với lời nói: "Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy." Liệu món chè cám thật sự ngon đến thế không? Và liệu lòng mẹ có thực sự vui sướng? Chỉ biết rằng một cảm xúc sâu kín dâng lên trong lòng khi nhìn thấy tấm lòng của bà cụ Tứ khi bà "lễ mễ" mang ra nồi cháo, tươi cười múc cháo cho hai đứa con.

Nhớ lại cuộc đời đầy gian khổ của bà, có bao giờ trên gương mặt u tối ấy lóe lên một tia nụ cười chưa? Ngay cả khi con trai đã kết hôn, trong lúc gặp gỡ người con dâu mới, nước mắt khóc và lo âu vẫn tràn ngập, dù trong lòng cũng có chút "mừng lòng" và hy vọng về tương lai. Vậy tại sao trong bữa cơm nghèo nàn đón dâu mới lại có món "nồi cháo cám" và nụ cười hạnh phúc chiếu sáng khuôn mặt già nua, nhẫn nhịn của bà? Ta hiểu rằng đó không phải là sự vui mừng của bà, mà chính là bà đang cố gắng mang lại niềm vui, dù mong manh, cho con trai và con dâu trong ngày quan trọng của họ. Tấm lòng của mẹ nghèo khổ thật sự đầy cảm động. Bà dậy sớm, làm việc nhà, trồng trọt, và trong bữa cơm, bà luôn nói những câu chuyện vui về tương lai, như chuyện nuôi gà... Và "nồi cháo cám" chính là biểu tượng cao nhất của tấm lòng mẹ nghèo thương hai đứa con đang bước vào cuộc sống mới giữa những ngày đói nghèo nhất của năm 1945.

Đây không phải là một bữa cơm thường ngày, mà là bữa cơm đầu tiên đón dâu mới, bữa cơm trong ngày "nhị hỉ" đầy ý nghĩa theo phong tục Việt Nam. Chính đêm qua, bà đã nói với một người phụ nữ xa lạ: "Thực ra, mẹ nên có dăm ba mâm, mời bà con hàng xóm, nhưng bữa cơm ấy phải thật hoàn hảo, nhưng vì đang trong những ngày đói nên chỉ có 'một niêu cháo lõng bõng, một dúm rau chuối thái rối chấm với muối trắng'. Ba mẹ con ăn vui vẻ, nhưng mâm cơm đã hết sạch, chỉ còn cái mẹt rách được dùng làm mâm. Một tình thế khó khăn sẽ đến trong bữa cơm ngày cưới, điều này, bà đã biết trước, và bằng tấm lòng yêu thương của mình, bà đã tìm cách "cứu nguy" cho nó, để con trai và con dâu có niềm vui trọn vẹn trong ngày quan trọng đó. Nồi cháo cám là biểu tượng của tấm lòng mẹ thương con, cũng là biểu hiện của tư duy mộc mạc, hiền hậu - những phẩm chất của người mẹ nông dân suốt cuộc đời sống với nghèo khó.

Bà nấu nồi cháo cám, giấu kín trước con trai và con dâu, để đến lúc nguy kịch mới mang ra "cứu nguy" như lúc ta tung ra quân át chủ bài khi ván bài đã đến lúc quyết định. Và như chúng ta thấy, bà vui vẻ mời gọi, đón nhận bát cháo của con dâu và con trai để múc cháo. Bà còn nói đó là chè khoán, ngon đáo để. Trong chi tiết này, hai lần Kim Lân miêu tả dáng vẻ tươi cười, đon đả của bà mẹ với hai đứa con một cách chân thành và tự nhiên. Chính điều này khiến ta cảm động, xót xa và ngưỡng mộ tấm lòng của người mẹ nghèo khổ. Bà có vui vẻ (vì con trai đã có gia đình, bà đã có người con dâu) hay bà chỉ đang cố gắng tạo niềm vui cho hai đứa con đáng thương của bà trong lúc khó khăn này? (Có lẽ là điều này quan trọng hơn, là điều chủ yếu trong tâm trí của bà lúc đó). Dường như bà cố ý xua đi không khí u ám, cố gắng vượt qua hoàn cảnh bằng sự tươi vui, động viên con cái. Dưới cái vẻ tươi vui đó, ta biết rằng lòng người mẹ đang đau đớn. Lòng đọc giữa xao xuyến và đau buồn... Đáng tiếc cho niềm vui của bà - niềm vui không thể lan tỏa. Bởi vẫn còn nồi cháo cám "chua xót, nghẹn ngào trong miệng" của con trai và làm "tối sầm hai con mắt" của con dâu. Và tiếng cười của bà tắt đi khi "một nỗi đau lẫn tủi hờn bao trùm quanh bàn ăn", họ ăn mà không nhìn nhau... Kim Lân viết ra những dòng này có vẻ như khách quan, nhưng ta biết lòng ông đau nhói ra sao, vì chính ông, gia đình ông, trong những ngày đói kém của năm Ất Dậu, cũng đã phải ăn cháo cám, ông đã biết hương vị của nó như thế nào?... Phải, cái nồi cháo cám không có gì đáng quý, nhưng tấm lòng của người mẹ nông dân suốt đời sống trong cảnh nghèo khó, liệu có gì xứng đáng hơn không? Có thể bà sắp không còn sống nữa. Nhưng bà sống vì con, cả con trai và người con dâu mới mà bà yêu thương sâu sắc, bà tìm thấy ý nghĩa cuộc đời trong việc chăm sóc con. Sự hi sinh, lòng khoan dung đó là của bà, của những bà mẹ nông dân khác mà chúng ta đã gặp trong cuộc đời. Và nồi cháo cám mà Kim Lân dành cho bà ở đây, trong phần kết thúc thiên truyện ngắn này, vẫn gợi lên sâu sắc âm hưởng đau xót của nạn đói khủng khiếp năm 1945, vẫn giữ lại hương vị đằm thắm của mong muốn có một gia đình bình yên dù trong cảnh "Vợ Nhặt"; nhưng trên hết và bao trùm tất cả, đó là tấm lòng nhân hậu cao cả của những người mẹ Việt Nam - "đằng sau bộ quần áo rách là những tấm lòng vàng!"

Đó là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc mà chúng ta thường thấy trong văn của các tác giả viết về người nông dân Việt Nam: Nhà văn Kim Lân.