Khám phá vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và con người Việt qua thơ Hữu Thỉnh

"Chiều sông Thương" mang đến cảm xúc sâu lắng về cảnh sắc sông Thương và tình cảm chân thành của tác giả

Đọc thơ Hữu Thỉnh, ta nhận thức được vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên và con người Việt Nam. Bài thơ "Chiều sông Thương" là một tác phẩm gần gũi, quen thuộc, lời thơ da diết, mang đến cho người đọc những cảm xúc sâu sắc về cảnh sắc bên dòng sông Thương và tình cảm chân thành của nhà thơ.

Ngay từ những dòng đầu tiên, chúng ta đã được dẫn vào thế giới cảm xúc của nhân vật trữ tình:

"Dọc suốt cả ngày thu vẫn chưa về tới ngõ sử dụng dằng hoa Quan họ bừng nở tím ven bờ sông"

Cảnh chiều thu buồn bã trải dài trên toàn bộ khung cảnh. Bầu không khí tĩnh lặng ấy đã làm chậm bước chân người con xa xứ, "vẫn chưa về tới làng". Trong khoảnh khắc nhìn thấy hình ảnh quen thuộc, "hoa Quan họ" nở rộ bên bờ sông, nhân vật trữ tình nhận ra toàn bộ vẻ đẹp:

"Nước vẫn chảy đôi dòng hoàng hôn vẫn lấp lánh nhẹ nhàng những điều mà dòng sông muốn thổ lộ cánh buồm đang rộn ràng hát ca"

Với kỹ thuật phối hợp nhịp điệu trong "nước vẫn trôi theo nhịp điệu/ hoàng hôn vẫn lấp lánh nhẹ nhàng", nhà thơ đã làm nổi bật bức tranh quê hương, giữ nguyên vẻ đẹp truyền thống. Trên dòng sông rộng lớn, hình ảnh những chiếc thuyền trở nên duyên dáng. Nhà thơ tinh tế khi mô tả tình trạng vừa "yên bình" vừa "sôi động". Cánh buồm được nhân cách hóa "đang rộn ràng hát ca" không chỉ thể hiện trạng thái "lướt nhẹ gió" mà còn thể hiện niềm hạnh phúc của con người qua giai điệu, bài hát.

Bức tranh tự nhiên mở ra rộng lớn với những nét vẽ của một họa sĩ tài ba:

"Tảng mây bên trời Việt Yên dịu dàng dắt bóng về Bố Hạ lúa e ấp che giấu trái cây cánh đồng nhấp nhô dưới hơi gió xanh"

Sự chọn lọc và sử dụng từ ngữ của nhà thơ thể hiện tài năng sáng tạo, hấp dẫn. Bầu trời cao kia trở nên mềm mại, mờ nhạt, như mời gọi bóng tối về phủ lên Bố Hạ. Nhìn xuống thấp, nhân vật trữ tình phát hiện hình ảnh "lúa đầu cúi", "cánh đồng nhấp nhô". Những cây lúa nặng trĩu hạt như những bông hoa rung rinh, báo hiệu mùa màng bội thu. Cảnh đẹp bao la, toàn bộ bên bờ sông Thương đang tận hưởng sự êm đềm, hòa quyện của gió, tạo nên sóng mặt nước màu "xanh". Bức tranh thiên nhiên tràn ngập bình yên và hòa quyện.

Theo dòng chảy của con sông quê hương, nhà thơ nhận thức được:

"Nước chảy màu đẹp quyến rũ giữa sông nước bốn bề mạ mới nẩy lá xanh tươi trên tầng bùn mịn màng"

Dễ dàng nhận thấy, mỗi sự vật đều hoạt động theo cách riêng biệt. "Nước phù sa" hay nước màu vẫn "lặng lẽ trôi vào lòng mương", mang theo dưỡng chất nuôi dưỡng ruộng đồng. Xa xa kia, những bông lúa mới nảy mầm đã khoác lên mình bộ áo mới, xanh tươi như những sợi lụa non. Tầng bùn đất được cày xới cẩn thận, trở nên mịn màng, nhẵn bóng. Tất cả đều đang sống động, phát triển mạnh mẽ, là dấu hiệu rõ ràng của một mùa màng phong phú. Có lẽ đó cũng là ước muốn của nhà thơ và những người dân ở Kinh Bắc "để đất quê mình phồn thịnh/ mặt ruộng mênh mang mùa màng". Ngắm nhìn niềm hạnh phúc, sự sung túc trên quê hương, nhà thơ không giấu được niềm vui, hạnh phúc. Mọi cánh đồng lấp lánh ánh vàng của lúa gạo, tạo nên hình ảnh đẹp như tranh, hứng khởi lòng người. Nghe dòng sông chảy, nhà thơ càng thêm trân trọng, kính trọng món quà quý báu mà con sông trao tặng những người nông dân "hạt phù sa thân thuộc/ như chuyện cổ tích". Hạt phù sa như một điều kỳ diệu, như câu chuyện cổ tích, tạo nên đồng ruộng tươi tắn, phồn thịnh, mang lại sự thịnh vượng và ấm no cho vùng quê thân yêu.

Cảm xúc đong đầy, hồn hậu khi ngắm nhìn vẻ đẹp bên dòng sông Thương, nhà thơ hoàn toàn chìm đắm vào bình yên nơi đó. Sự xúc động, cuốn hút được gói ghém trong hai dòng thơ "thác thỏm sông màu nâu/ hòa mình trong sắc xanh biếc". Từ "thác thỏm", kết hợp cùng "màu nâu", "xanh biếc" làm rõ tình cảm sâu sắc của tác giả. Dù sông có màu nâu của phù sa hay đẹp như màu "xanh biếc", nó vẫn mang theo sức sống, "nở nang cho mùa sắp gặt/ nuôi dưỡng cho mùa phôi thai".

Bằng nghệ thuật thơ bày tỏ trong bốn câu ngắn gọn, hình ảnh thơ gần gũi, lời thơ chứa đựng cảm xúc kết hợp với các diễn ngôn nghệ thuật như: nhân hóa "dòng sông muốn nói", so sánh "đôi mắt như lưỡi cau dao" đã tạo nên bức tranh sống động về sông Thương trong buổi chiều thu. Ngoài ra, hình thức viết độc đáo, không viết hoa chữ đầu câu thứ hai làm cho bài thơ trở thành một câu chuyện tận cùng tình cảm của người xa quê. Từ đây, chúng ta cảm nhận được tình yêu sâu sắc với thiên nhiên, quê hương luôn ghi sâu trong tâm hồn và trái tim của nhà thơ.

Bài thơ "Chiều sông Thương" không chỉ là bức tranh tĩnh lặng về quê hương trong nền văn hóa miền Bắc, mà còn là sự thể hiện tình cảm mật thiết và gắn bó của Hữu Thỉnh. Hy vọng rằng, bài thơ sẽ tồn tại mãi theo thời gian